Hành Trình của linh hồn - TS. Michael Newton (Chương 7-8)

Cập nhật lần cuối lúc 19h:2, ngày 4/2/2016.

HÀNH  TRÌNH CỦA LINH  HỒN

 

TS. PETER  RICHELIEU

CHƯƠNG  BẨY

 

 

Làm như tôi không có ngủ chút nào hết ! Khi sáng nay thấy mình ở trong thể xác trở lại, trí não tôi nhớ rõ ràng mọi chuyện đã xẩy ra, giống như tôi đi xem kịch và được yêu cầu viết lại mọi tình tiết của vở kịch ấy. Thế nên tôi có thể ngồi xuống cầm giấy bút và ghi lại trung thực tất cả những gì đã diễn ra.
Sau khi uống viên thuốc tôi nhìn cái đồng hồ nhỏ của Pháp thấy kim chỉ 9:42 tối. Tôi không ráng ngủ nhưng trong vài phút thấy mình thoát ra khỏi xác thân và đứng cạnh giường có thể xác nằm ngủ trên đó. Tôi nhìn giờ nữa thì thấy là 9:55. Không có ai chung quanh nên tôi tới lui trong phòng, lạ lùng rằng chuyện đơn giản biết bao, trong khi lần đầu tiên đi chơi cõi trung giới tôi lại thấy nó hết sức phức tạp. Tôi không muốn ra khỏi phòng vì nhớ thật rõ là vị thầy Ấn Độ có nói ông sẽ lại đây lúc 10 giờ, thế nên tôi chờ ông tới, chắc dạ rằng ông sẽ không sai lời.
Lát sau tôi nhìn đồng hồ thì đã 10 giờ, vẫn không có gì xẩy ra. Năm phút nữa trôi qua và tôi tự nhủ không chừng chuyện hỏng bét. Thời khắc trôi đi và tôi càng lúc càng bồn chồn lo lắng, nhưng không muốn tự đi chơi một mình. Khi tôi  sắp nhìn đồng hồ nữa thì nghe có tiếng nói nay trở nên quen thuộc ở sau lưng tôi cất lên:
– Anh có nghĩ là tôi làm anh thất vọng không ?
Vị thầy Ấn Độ bảo rằng ông đến trễ vì phải giúp một người bạn của ông vừa qua đời hồi sáng. Người này rất sợ chết và tuy đau ốm từ mấy tháng nay, vẫn cố chống chọi tử thần cho đến cùng. Ông giải thích rằng làm vậy chỉ vô ích khi ngày giờ tới, và tuy ông bạn có thể duy trì sức sống trong thể xác thêm được vài tuần bằng ý chí cứng cỏi của mình, cuối cùng thì thần chết vẫn thắng. Cơn bệnh mà người này mắc phải từ nhiều tháng qua làm thể xác họ bị yếu tới mức thể sinh lực không sao ở lại trong đó được nữa. Vị thầy nói rằng ông giúp người bạn thải bỏ thể sinh lực, tuy người này muốn giữ nó lại vì nó là cái gần gũi nhất với sự sống cõi trần, là sự sống duy nhất mà người bạn hiểu được.
Làm cho người bạn chịu có ý chí cần thiết để thải bỏ thể sinh lực khỏi thể tình cảm, khi cái trước quấn lấy cái sau, mất nhiều thì giờ hơn mọi khi.
– Bạn tôi yên chuyện rồi, ông nói, tôi giao anh bạn cho vài người cứu trợ ở cõi trung giới. Chắc họ muốn ở cạnh bạn tôi cho tới khi nhờ kinh nghiệm rõ ràng anh sẽ học được đôi chút về Luật.
Tôi hỏi kỳ này đi chơi sẽ làm gì, ông đáp chuyện cần là trước tiên tôi nên có kinh nghiệm của việc đi từ cảnh thấp lên cảnh cao. Ông giải thích kỹ với tôi là tuy dùng chữ cảnh cao nhưng chúng không thực sự ở bên trên nhau xếp thành tầng, tầng này chồng lên tầng kia, mà đúng ra là ở quanh chúng ta, chỉ khác nhau ở mức đậm đặc nhiều hay ít.
Ông đề nghị khởi sự chuyến đi từ London nên cả hai chúng tôi vút đi như lần trước. Chẳng mấy chốc chúng tôi bay chậm lại, thấp xuống đất liền và tôi nhận ra gần như trong tích tắc thành phố London rộng lớn nằm dưới kia. Tôi không nhìn rõ những vật mà chúng tôi vụt qua trên đường, tôi chỉ phân biệt được giữa đất liền và biển mà thôi, nó làm như chúng tôi xem xi nê về phong cảnh được chiếu rất mau. Tôi không thấy mình phải ráng sức để bay đi và tuy đến nơi gần như chưa đầy một phút sau, chúng tôi không thở hổn hển chi cả.
Như lần trước chúng tôi đáp xuống Hyde Park, tôi được cho hay đây là chỗ tốt nhất để đáp xuống bởi chúng tôi sẽ đi ra Piccadilly Circus, đáp xuống ngay nơi đó dễ làm tôi kinh hoảng vì xe cộ qua lại như mắc cửi, và cho cảm giác (rất sai lầm) là tôi có thể bị xe cán dẹp. Nếu bị kinh hoảng như vậy thì nỗi hoảng sợ đó truyền về thể xác của tôi đang nằm trên giường ở Colombo, nó sẽ lập tức kêu chủ nhân quay lại nhập xác. Khi trong thể tình cảm vội vã trở về thể xác theo cách đó, tôi sẽ choàng tỉnh với tim đập thình thịch như trống làng và chắc sẽ tin là vừa có ác mộng bị xe cán dẹp lép, với ác mộng này không nhất thiết phải giống chuyện thực đã xảy ra. Nỗi kinh khủng sinh ra do ác mộng tưởng tượng như thế có thể làm tim tôi đánh loạn xạ, vì đó là phản ứng mà lòng sợ hãi thường gây ra cho thể xác.
Xuống tới mặt đất tôi gặp lại khung cảnh quen thuộc mà tôi rất thường nhìn thấy khi xưa. Trời chiều có nắng đẹp với nhiều người đi tản bộ. Trẻ con với mẹ hay bà vú đang chơi đùa như thường lệ, và cách đó không xa cho lắm tôi thấy được dòng xe cộ tuôn chảy không ngớt, xe hơi, xe taxi, xe bus trên đường Park Lane về Piccadilly và Hyde Park.
Tôi đề nghị đi bộ dọc theo đường Oxford, và tuy vỉa hè đông chật người đi sắm hàng trễ nay vội vã ra về cùng nhân viên cửa hàng vừa đóng cửa tan việc, chúng tôi đi không bị cản trở chi. Như lúc trước tôi cảm thấy có sự chạm phớt thoáng qua mỗi lần tôi đi xuyên qua một thể xác, và khó mà không lên tiếng xin lỗi. Vị thầy không thích đám đông, ông lướt trên đầu khách bộ hành khoảng gần hai thước; chẳng mấy chốc tôi cũng làm thế và cả hai chúng tôi đáp xuống đất trở lại ở Piccadilly Circus. Ông hỏi:
– Anh có muốn nhìn lại cảnh lần trước ta đến London, và coi xem anh nhận diện được ai đã gặp trong nhà hàng Trocadero không?
Tôi đồng ý và chúng tôi bước vào. Phòng ăn đầy chật với người ta đợi bạn, với người hầu bàn lăng xăng tới lui lấy đơn gọi món ăn và mang thức ăn ra cho khách. Tôi không thấy ai quen ở đó cũng không thấy bóng dáng của Charles hay Roy Chapman. Tôi tự hỏi anh chàng sau này có chán chưa việc gọi những bữa ăn rượu thịt ê hề mà không phải trả tiền, nhưng tôi không lên tiếng. Vị thầy ra dấu gọi và tôi hiểu là ông muốn lên lầu. Tôi đi theo không thắc mắc gì cả, chẳng bao lâu chúng tôi đến một hành lang có nhiều cửa phòng dọc hai bên. Ông vào một phòng hoá ra là phòng ngủ bỏ trống. Tự nhiên là hai chúng tôi lướt qua cửa mà vào không cần chìa khóa.
– Bây giờ, ông nói, ta làm việc đây. Tôi đến phòng này để chúng ta được yên tĩnh, vì tôi muốn anh biết rằng việc đi từ cảnh thấp nhất lên cảnh ít đậm đặc hơn là chuyện rất giản dị, chỉ cần có ý chí một chút là nó diễn ra ngay. Tôi muốn anh nắm lấy tay tôi và có ý muốn làm điều tôi làm. Anh sẽ không cảm biết gì hết nhưng sẽ thấy rằng khung cảnh chung quanh từ từ thay đổi. Tường phòng có vẻ bao bọc chúng ta ở đây sẽ dường như tan biến, bàn ghế anh thấy quanh đây sẽ chậm chạp nhạt nhòa dần biến thành sương khói, trong khi đó anh phải giữ cho trí bình lặng để cái trí của tôi chế ngự anh. Chuyện gì xẩy ra cũng đừng sợ hãi vì nếu kinh hoảng thì anh sẽ tỉnh giấc ngay ở Colombo. Nào, anh sẵn sàng chưa ?
Tôi đáp rồi và không thấy sợ hãi chi hết mà chỉ thấy hứng thú. Tôi nắm chặt bàn tay của ông và cố hết sức mình để ý chí của ông kiểm soát tôi, tường phòng gần như lập tức hóa mờ đi thành hư ảo, bàn ghế cũng vậy, và kể thì lâu nhưng mọi việc diễn ra rất mau, chúng tôi thấy mình đứng ngoài trời giữa cánh đồng nhỏ, xa xa trông giống như có ngôi làng tiêu biểu của Anh.
– Nào anh hãy nghe đây, ông nói, anh sẽ nghe rất rõ tiếng rì rầm từ đằng xa. Đó là âm thanh rộn rịp huyên náo của thành phố London, anh nghe được vì anh chỉ ở cảnh hay bầu ngay bên trên cảnh vừa rồi mà thôi, cái là phản ảnh của cõi trung giới của London hồng trần mà anh biết rõ. Đây là cảnh thứ hai của cõi trung giới, và anh thấy ngay là nó bớt đi rất nhiều nét vật chất so với cảnh đậm đặc nhất, nơi mà anh bước qua ngay sau khi chết. Ta hãy đi quanh một chút để anh hiểu tôi muốn nói gì.
Chúng tôi cất bước, lại bay nhẹ trên không cách mặt đất chừng một thước cho tới khi tới ngôi làng mà tôi thấy từ xa. Nó rất giống ngôi làng bình thường vì có mấy cửa hàng, hai rạp chiếu bóng, một khách sạn sang trọng thấy quá lớn so với tầm vóc của làng, và ở ngoài bìa làng có ít nhất ba tòa nhà lớn rõ ràng là các nhà thờ. Chung quanh làng và kéo dài ra xa tôi thấy nhiều ngôi nhà tuyệt đẹp. Cái to, cái nhỏ nhưng cái nào cũng có vườn hoa đầy mầu sắc bao quanh, trong đó có đủ loại hoa nở rộ.
Tôi thấy cả đàn ông, lẫn đàn bà đang làm vườn, nhưng hiển nhiên họ làm là để vui chứ không vì bắt buộc phải làm. Nhiều giống chó khác nhau chạy tung tăng trong sân cỏ, đi ngang qua đó chúng tôi nghe loáng thoáng tiếng trẻ con. Cái khác biệt giữa nơi đây và nhà tương tự ở cõi trần là không thấy có nhà để xe, tôi để ý là không có xe hơi trên đường. Sự việc được giải thích là không cần có phương tiện di chuyển, vì người ta đi từ nơi nầy sang nơi kia bằng những cách dễ dàng hơn, tức chỉ cần có ý trong đầu muốn đi đâu thì lập tức họ lướt nhẹ lên không tới nơi muốn đến.
Tôi hỏi tại sao có cửa hàng khi người ta không cần tiền, thì được cho hay là ai cảm thấy hạnh phúc ở chốn này thích sống cảnh giống với đời lý tưởng mà họ luôn tưởng tượng lúc dưới thế. Vị thầy nói:
– Có người dùng tiền, họ tạo ra bằng óc tưởng tượng rồi mua thực phẩm, rồi nấu nướng và cũng ăn như thật tuy tất cả đều là chuyện tưởng tượng, vì họ muốn thế.
Tôi hỏi.
– Nhưng tất nhiên ta không cần có tiệm bán hàng khi chỉ cần nghĩ mình muốn gì là tạo ra ngay trong nhà vật mà ta muốn có ?
Ông đáp:
– Những cửa hàng này có là do trí tưởng tượng của dân cư ở đây, không cái nào có thật và người bán trong tiệm cũng không có thật. Một khi dân cư nghĩ chuyện gì nó lập tức biến thành sự vật ở cảnh huyễn mộng này. Cửa hàng đều là một phần của óc tưởng tượng cùng với tạp hóa bán trong đó, nhưng bao lâu mà người ta muốn có tiệm gần nhà thì họ có chúng, vì họ tưởng tượng ra chúng.
Ông nói tiếp:
– Nhà thờ cũng vậy. Người ta thích tiếp tục thờ phượng dù rằng sau khi chết, họ có thể khám phá là nhiều chuyện mà giáo sĩ đoan quyết khi xưa, nay không hoàn toàn đúng nữa. Dân cư cõi này tạo ra nhà thờ, chùa miếu và mục sư, linh mục, tăng sĩ đã qua đời tiếp tục làm việc của họ, thu hút tín đồ lại với họ y như lúc ở cõi trần.
"Xi nê cũng rất được ưa chuộng, nhưng trong khi cảnh thứ nhất có biết bao phim kể không hết thì cảnh thứ hai không giống thế. Ở đây rạp chiếu phim không phải là thể vía của rạp ở cõi trần, mà là hình tư tưởng của dân cư thường trú nơi đây. Ta luôn luôn có những nhà sản xuất phim đã chết, hay nhà làm phim tài tử, sáng tạo ra phim mới theo óc tưởng tượng của họ, và hình tư tưởng những phim ấy hiện lên màn ảnh cho mọi người cùng xem. Các phim đó hay hơn phim làm ở cõi trần hay ở cảnh thứ nhất cõi trung giới về nhiều mặt, vì với điều kiện ở đây nhà sản xuất có thể cho óc tưởng tượng hoạt động thả dàn. Họ không lo lắng đến chi phí cuốn phim.
"Kịch nghệ cũng rất phổ thông ở cảnh thứ hai, ai thích đóng kịch tài tử thường cùng với diễn viên chuyên nghiệp dựng hết vở kịch này tới vở kịch kia cho bạn bè thân hữu xem, và họ có thể làm vậy thật dễ bởi có được y trang thích hợp, phông cảnh hay dàn nhạc là việc không khó. Chỉ cần tưởng tượng là tạo ra được và không tốn một xu.
"Có người vẫn còn thích sống trong khách sạn. Chắc đó là người luôn luôn cho rằng ở trong khách sạn sang trọng đắt tiền lúc sống họ không thể ở được là chuyện rất tuyệt, nay họ có thể sống trong đó. Ấy là lý do tại sao khách sạn trông quá lớn so với tầm cỡ của làng. Khách sạn như vậy không thể hiện hữu trong ngôi làng bình thường dưới thế, nhưng ở đây nó không cần sinh lời. Người ta ở trong khách sạn và có mọi dịch vụ, chăm sóc chỉ bằng cách tưởng tượng, nên họ được hạnh phúc trong một thời gian.
Tôi hỏi:
– Nhưng chắc rồi sau một lúc mọi chuyện này sẽ hóa nhàm chán chứ ?
– Phải rồi, nó sẽ đi tới việc đó, ông đáp, khi ấy con người đi tìm chuyện khác làm họ thoả mãn hơn trong đời như anh sẽ thấy về sau. Vì khi ao ước nào đó mất đi họ có thể chuyển sang ao ước điều khác và đạt được nó. Nhiều người hoàn toàn hạnh phúc với cảnh sống thiên đàng ở đây, nhất là những ai có đời không may dưới thế. Người như vậy thường dành 90% quãng đời của họ ở cõi trung giới sống trong khung cảnh này, nơi họ có bè bạn, chó mèo, nhà cửa đẹp đẽ với vườn tược làm họ mãn nguyện. Họ chỉ đi sang cõi trí khi chân nhân của họ thúc đẩy kêu đi, vì chân nhân muốn tiến bước trên đường Tiến Hoá.
Vị hướng dẫn nay kêu tôi nắm lấy tay ông lần nữa và muốn như ông, là đi từ cảnh thứ hai sang cảnh thứ ba. Tôi làm y như lời dặn , lập tức khung cảnh chung quanh hai chúng tôi bắt đầu mờ dần và từ từ nhường chỗ cho cảnh mới. Cảnh trí nay khác lạ hẳn, chúng tôi đứng ở khoảng trống ngoài trời làm như có hàng chục cánh rừng thưa bao bọc. Nếu bạn tưởng tượng ra một công viên khổng lồ có cây cao bóng cả khắp nơi, vườn cỏ, gò đất xen lẫn với lùm cây thì nó giống như chỗ này. Dưới trần không có chỗ nào giống như nơi đây, nhưng tôi nghĩ là nếu nhìn từ trên xuống thì có thể trọn cảnh trông giống như rừng Sherwood mênh mông. Những khoảng vườn trống thì to nhỏ thay đổi, rộng từ hơn một mẫu tây (một hectare 10.000m2) cho tới 15 mẫu, rất thơ mộng vì đâu đâu cũng có bụi hoa, và chỗ cỏ mọc xanh rì có hoa  thuỷ tiên với hoa lưu ly lấm tấm nở rộ. Mới thoạt nhìn thì không có nhà nào, nhưng về sau tôi thấy mấy toà nhà rất lạ, rất to, trông giống như dinh thự của nhà quí tộc hồi xưa ở Anh.
Chúng tôi lướt đi và tôi thấy ở những khoảng đất trống vừa nói có nhiều nhóm tụ họp. Lại gần một nhóm như thế, tôi thấy có khoảng trăm người đang theo dõi một hoạ sĩ vẽ tranh trên khung vải, kích thước khoảng 17 m x 10 m. Thấy ngay là họ mê mẩn với hình đang ngắm vì không ai để ý tới việc có hai chúng tôi ghé vào nhóm. Hoạ sĩ không dùng cọ mà trong tay có một thanh dài giống như cần câu cá, khi ông chỉ thanh này vào những nơi khác nhau trên khung vải thì hình hiện ra, ban đầu đường nét thô sơ rồi chi tiết rõ dần.
Trong lúc vẽ họa sĩ lên tiếng giải thích hình ảnh đang sáng tạo, ông tạo nên thật rõ ràng ấn tượng mà ông muốn người đang đứng xem cảm biết, và có lần ông bôi bỏ một khoảnh của bức họa, một phần của tranh bị xóa mất, và giải thích rằng hình tư tưởng trước của ông chưa có đủ chi tiết để cho ra tác động muốn có. Họa sĩ dường như tập trung tư tưởng nữa, cái thanh vung lên xuống, đi ngang và lập tức một chi tiết mới thành hình, hòa hợp với những phần khác của tranh. Việc vẽ lại này nhấn mạnh ngay điểm mà ông vừa trình bầy một phút trước.
Tôi không hiểu về mấy lời mà họa sĩ giảng giải, vì nó dùng danh từ kỹ thuật chỉ có nghệ sĩ trong ngành mới thấu đáo. Nghe nói ông là một trong những nhà danh họa ngày xưa. Vị hướng dẫn cho hay ai là họa sĩ khi qua đời sẽ tiếp tục sáng tác, vì động cơ thúc đẩy họ làm việc lúc sống sẽ tiếp tục sau khi chết. Họ không cần dùng cọ và sơn ở cảnh giới này, vì có thể dùng mầu biểu lộ ý mình, chỉ bằng cách phóng ra tư tưởng. Chất liệu mềm dẻo của cõi trung giới đáp ứng ngay với hình tư tưởng, bức tranh hiện ra như có phép thuật khi tư tưởng nẩy sinh.
Tuy khung vải xem ra rất lớn so với những bức tranh thấy trong các phòng trưng bầy họa phẩm ở cõi trần, nó không kềnh càng khó vẽ ở cõi trung giới, bởi chỉ cần tập trung tư tưởng vào một phần của khung vải là hình trong trí họa sĩ hiện ra trên khung. Tôi không sao diễn tả được mầu sắc lộng lẫy vẽ nên tranh, vì chúng ta không có chữ để gọi tên bao nhiêu sắc đậm nhạt của mầu được dùng. Khi nói rằng tôi thấy ít nhất ba mươi sắc khác nhau của một mầu, mà nếu phải tả một sắc nào trong số đó tôi chỉ có một chữ 'đỏ' để dùng, thì bạn hiểu là tôi chỉ có thể tả lại rất khiếm khuyết hình mà tôi nhìn ngắm thật rõ ràng ở đây.
Vị thầy Ấn Độ giải thích là nhiều nhà danh họa ngày xưa mà vẫn còn ở cõi trung giới, sống ở bầu này và dùng cả đời để vẽ lên tranh những ý tưởng đầy ắp trong trí họ. Cùng lúc ấy họ chỉ dạy cho ai chịu lắng nghe, quan sát, phương pháp tạo nên hình. Tôi nghe chỉ cần vài giờ là họ tạo được một trong những bức tranh khổng lồ, và chuyện thường thấy là khi họa sĩ xong bức này thì lập tức bắt tay vẽ bức khác. Tôi hỏi.
– Nhưng một khi họa sĩ không còn chú tâm vào khung vải nữa thì hình ảnh trong bức tranh đầu có mờ đi không ?
Ông trả lời.
– Không, nó vẫn y như anh thấy lúc này bao lâu còn có ai nhìn vào tranh. Sự việc là khi bức tranh được tạo bằng chất liệu cõi trung giới thì nó ngưng đọng cho mọi người xem, bao lâu còn một tư tưởng trụ vào nó. Khi mọi tư tưởng rút khỏi tranh thì nó hoàn toàn tan rã trở về bầu không khí cõi trung giới và mất hẳn, hay cho tới khi một tư tưởng mới tạo nó trở lại thành bức tranh mới.
Tôi đứng xem cho tới khi tranh hoàn tất, mê mẩn với tài khéo léo của nghệ sĩ sáng tạo và kết quả đạt thành. Khi họa sĩ đi ra xa và trò chuyện với vài người trong đám đông ngồi quanh xem ông vẽ, tôi thấy mấy người khác đích thị là học viên mỹ thuật, bắt đầu vẽ tương tự mô phỏng theo bức họa chính. Tôi vẫn đứng nhìn và thấy ngay sự khác biệt lớn lao giữa tranh của họ và của họa sư. Việc được giải thích là có sự khác biệt một trời một vực như thế vì học viên thiếu hiểu biết so với sự hiểu biết của họa sư. Học viên không thể biểu lộ bằng tư tưởng rõ ràng trong sáng điều họ muốn hiện lên khung vải, thế nên kết quả rất là thiếu sót, vụng dại.
Hiển nhiên  khung vải chỉ trưng ra hình mà họ có thể biểu lộ bằng tư tưởng và tôi thấy rất rõ tại sao như thế. Ngay cả trong các phòng triển lãm tranh ở cõi trần, nếu nhìn vào một  bức tranh thường khi ta có thể cảm nhận đôi chút về điều mà họ sĩ gắng công diễn tả. Cảm nhận ấy được nhấn mạnh ngàn lần hơn nơi cõi trung giới, và nhìn vào bức họa tuyệt mỹ này tôi hiểu ngay không có gì nghi ngờ điều họa sĩ muốn thể hiện bằng hình và mầu sắc.

Chúng tôi đi khỏi nơi ấy và gặp nhiều nhóm tụ quanh những người làm việc tương tự, nhưng bởi vùng quê này có hơi nhấp nhô lên xuống nên khó mà thấy hai nhóm cùng một lúc. Trong một thung lũng với dòng suối trôi lững lờ, có nhóm ngồi bên bờ suối dường như không làm gì cả, tuy nhiên khi đến gần tôi thấy nhóm này không nhìn ngắm họa sĩ làm việc, mà đang phát ra âm thanh giống như một hòa tấu khúc đẹp đẽ do một trong những giàn nhạc nổi tiếng của thế giới trình diễn. Chỉ khi đến thật gần nhóm tôi mới nghe được, và khi ấy tôi thấy không khí chung quanh tràn đầy loại âm nhạc tuyệt vời nhất mà tôi chưa từng được nghe. Ở giữa nhóm là một người đàn ông có gương mặt xem ra quen thuộc, nhưng tôi biết là mình chưa hề gặp ông ngoài đời. Tôi hỏi vị hướng dẫn về người này thì ông nói nhỏ: 
– Đó là nhà soạn nhạc tài danh Johann Strauss.
Lúc đó nhạc sư đang trưng ra cách diễn tả âm thanh của nước chảy róc rách bằng tiếng nhạc, tôi nhớ ra ông là người soạn bản nhạc 'Dòng Sông Xanh, Blue Danube', và tiếng nhạc nơi đây dường như có nhiều âm hưởng của bản valse tưng bừng ấy, mà còn tươi vui hơn nữa.
Trong khi đứng sững mê mẩn nghe, tôi thấy bên kia bờ suối có những hình người như sương khói mà về mặt nào đó là một phần của tấu khúc đầy thi vị tôi đã nghe. Vị thầy Ấn Độ bảo tôi quan sát kỹ những người mới nầy, ông nói:
– Họ thuộc về loài thiên thần, theo đường tiến hóa song song với con người như tôi đã giải thích với anh.
– Nhưng họ đang làm gì vậy ? tôi hỏi, và sao thấy họ khác với đám đông ở bờ suối bên này phía chúng ta.
Tôi được dạy là trông họ khác vì quả thực họ dị biệt với loài người. Thể của họ thanh nhẹ, mờ ảo hơn; họ thuộc đường tiến hóa khác nên cơ thể khác với ta, dù làm bằng chất liệu cõi tình cảm nó vẫn ít cô đặc hơn với thể tình cảm của người. Đây là những thiên thần âm nhạc có sự sống của họ thể hiện bằng âm thanh, và họ đang trợ giúp nhà soạn nhạc ngồi bờ suối bên này biểu lộ ý mình đúng như ông muốn. Tôi không thể nói được là họ giúp như thế nào vì họ không hề thốt lời, nhưng có vẻ như thiên thần tập trung vào nhạc sư và qua tư tưởng của họ, cho phép nhạc sư biểu lộ nhiều chi tiết hơn điều ông nỗ lực sáng tạo bằng âm thanh. Âm lượng có đó và mỗi nốt được nghe rõ ràng, nhưng tôi thấy là khi đi ra xa khỏi chừng 50 thước thì không còn nghe gì cả.
Khó mà diễn tả cho dễ hiểu bằng lời các nhân vật thuộc thế giới thiên thần. Hình dạng họ tuyệt đẹp nhưng khi di động thì giống như họ bốc hơi nhòa ra, khi đứng yên như cũ thì hình dạng có đường nét rõ ràng trở lại. Tôi nghĩ cách diễn tả hay nhất là nói rằng thân thể họ giống như sương khói, chỉ tụ thành hình khi thiên thần đứng yên một chút. Chúng tôi đi sang bờ bên kia nhưng khi tiến lại gần thì có vẻ như thiên thần lướt tránh ra xa, tựa như thú vật nhút nhát. Họ không sợ hãi chúng tôi nhưng tuyệt không có ý mời gọi chúng tôi tiếp xúc, và tôi cảm nhận là nếu chúng tôi muốn đến gần họ với ý định trò chuyện (bằng cách nào thì lúc ấy tôi không biết), hẳn họ sẽ biến mất trong không. Vị thầy Ấn Độ nói rằng cảm nghĩ ấy khá đúng.
Ông ra dấu cho tôi theo ông đi tiếp. Chẳng mấy chốc tôi thấy là ông hướng về một trong những toà nhà đồ sộ mà tôi nghĩ như là dinh thự của một trang trại. Tiến đến gần tôi thấy kiến trúc rất thanh tú, có cửa kính mở ra hàng hiên nhìn bao quát vùng đồng quê chung quanh. Sân cỏ rộng từ tòa nhà đứng trên đỉnh đồi chạy thoai thoải dốc xuống, những khóm cây trổ hoa bao quanh nhà và nếu nhìn kỹ, ta có thể thấy biển ở ngoài xa cách đây chừng 15 cây số. Chỗ này thật nên thơ, tôi tự hỏi ai sống ở đây và để làm gì. Chúng tôi đáp xuống đất trong sân trước và đi qua cánh cửa rộng vào gian phòng thênh thang, trần thiết giống như tôi nghĩ nhưng với một khác biệt đáng nói, đó là trong phòng có cây nhỏ và bụi hoa, chính yếu là hoa hồng đang nở rộ với rễ mọc xuyên qua sàn nhà. Cảnh vật không có gì là giả tạo mà thật sự ta thấy mình đang đứng ở vườn trong nhà, rất hài hòa đẹp mắt.
Không thấy có ai chung quanh và không có âm thanh nào cho biết là có người, nhưng vị hướng dẫn lập tức đưa tôi vào một cánh cửa thông với gian phòng; khi cửa mở tôi nghe có tiếng nhạc vẳng đến. Chỉ có một người trong phòng và ông đang dạo nhạc trên cây đại dương cầm, cách thức cho thấy ngay ông chẳng phải là nhạc sĩ tầm thường. Ông không để ý gì đến chúng tôi mà tiếp tục chơi đàn và chúng tôi lắng nghe, mê say với tài nghệ của nhạc sĩ trên cây đàn. Có vài chiếc ghế dựa đầy vẻ mời mọc và chúng tôi ngồi xuống, nghe nhạc sĩ tấu nhạc khoảng hơn một khắc đồng hồ. Sau một lúc tôi thấy bản nhạc tương tự như bản Prélude của Chopin, và tôi thì thầm hỏi vị thầy hướng dẫn rằng nhạc sĩ là ai. Ông đáp:
– Anh không nhận ra sao, đó là nhà soạn nhạc nổi tiếng Chopin, ông vẫn tiếp tục dùng âm nhạc để biểu lộ tâm hồn cao cả của mình giống như ông thường làm lúc còn sống. Anh để ý thấy là ông không có vẻ ốm yếu nơi đây, vì hồi còn ở cõi trần nhạc sĩ bị nhiều bệnh và trong phần lớn kiếp đó ông không phải là người mạnh khỏe. Bây giờ mọi việc đều thay đổi, ở đây không còn sự mệt nhọc quấy nhiễu ông, và ông sáng tác càng ngày càng nhiều âm nhạc đẹp đẽ mà thỉnh thoảng ông cho các nhạc sĩ khác thưởng thức.
"Ở cảnh này lúc nào cũng có hòa nhạc thế nên dự những buổi ấy không có gì là khó khăn, nếu anh thực sự ưa thích và có thể thưởng thức vẻ mỹ lệ trong thiên nhiên mà nhạc sĩ gắng công diễn tả bằng âm thanh."
Tôi nhìn chăm chú nhạc sĩ hơn, thấy không có nét nào giống với vị đại nhạc sĩ mà tôi đã xem hình, nhưng chắc ký ức của tôi mơ hồ về những đại nhạc sĩ và có lẽ tôi không nhìn hình họ kỹ cho lắm. Lát sau nhạc sĩ ngưng chơi đàn và quay sang chúng tôi, không tỏ vẻ gì là bị phá rối hay bực bội vì sự hiện diện của hai chúng tôi. Ông cho rằng chúng tôi là người yêu nhạc nên giải thích việc ông đang nỗ lực diễn tả, và tuy ông dùng vài chữ kỹ thuật tôi vẫn hết sức hứng thú với lời ông nói. Nhạc sĩ nhấn mạnh rằng theo ý của ông, mỗi âm thanh là sự diễn tả của hoặc mầu sắc hoặc sự chuyển động. Các hợp âm, hòa âm là bức tranh bằng âm thanh của khu vườn diễm lệ, và khi có giai điệu thì người ta phải có thể lập tức 'cảm' ngay một dòng suối trôi êm nhẹ, thí dụ giữa hai khu vườn với cây hoa được xếp đặt tuyệt hảo, và ráng thấy bức hình mà nhạc sĩ ra công diễn tả. 
Tôi thường tự cho mình có khiếu về âm nhạc, nhưng nhận ra ngay là mình hiểu về nghệ thuật này ít biết chừng nào, và hứa với lòng rằng sau khi qua đời tôi sẽ là một trong những người miệt mài theo đuổi việc học nhạc. Điều không may là ở cuộc sống dưới trần, những đại nhạc sư này trong đa số trường hợp nằm ngoài tầm tay và cơ hội của người bình thường phải đi làm mưu sinh.
Chúng tôi rời y như khi đến không chào hỏi cáo biệt ai, và lúc chúng tôi đi ra thì Chopin quay trở lại dương cầm của ông bắt đầu chơi tiếp. Khi đóng cửa và bước ra hành lang, không còn âm thanh nào vẳng qua cánh cửa. Chỉ có tiếng chim, nhiều loại lông cánh đủ mầu bay lượn đó đây không những chỉ trong vườn mà cả trong nhà. Vị thầy nói rằng dinh thự rộng lớn này là một trong những Trường Mỹ Thuật lớn ở cảnh thứ ba cõi tình cảm, và hằng trăm cư dân thường trú nơi đây dành phần lớn thì giờ của họ để học nghệ thuật mà họ đặc biệt ưa chuộng. Tôi nghe là luôn luôn có sẵn lớp chỉ dẫn, vì tất cả những bậc sư trong ngành đều sẵn lòng dạy ai hăng hái muốn học, và cơ hội lúc nào cũng có đó vì không còn ngày hay đêm hay sự mệt nhọc làm bận trí người, nhưng tôi hỏi:
– Tuy nhiên người ta đâu thể học và thực hành sáng trưa chiều tối liên tục, tuần này sang tuần kia, tháng này sang tháng nọ, năm nay rồi năm sau không ngừng nghỉ ?
– Có chứ, và như tôi đã nói với anh, họ không thấy mệt hay thấy ngày giờ dài lê thê, trôi qua nặng nhọc khi họ yêu thích và mê say với việc họ làm. Nếu phân tích phản ứng của anh ở cõi trần, anh sẽ thấy thời giờ không hề dài dằng dặc khi anh làm chuyện muốn làm.Thường thường người ta mệt nhọc và phải ngưng lại nhưng ở đây không phải thế, vì không ai biết mệt và cũng vì không có ngày giờ theo như ta hiểu ở cõi trần, anh không phải về nhà ăn cơm, không có vợ con chờ ở nhà và không có trách nhiệm hay bổn phận chi hết. Những giới hạn đó không có ở cõi tình cảm nên con người làm việc hay nghỉ ngơi theo ý họ muốn, không phải bận tâm là có được bao nhiêu thì giờ dành cho chuyện học hay giải trí này.
Rồi vị thầy hướng dẫn bảo ông có chút việc phải làm, nhã nhặn xin phép được rời trong một lúc ngắn, ông nói:
– Anh cứ đi chơi nơi nào anh muốn, không ai ngăn trở chi và tôi đề nghị anh thả bộ vào thăm các gian phòng khác nhau, vì tôi có thể bảo đảm là anh sẽ không gặp cấm cản nào. Tòa nhà này rất giống những dinh thự ở nơi đây, đáng bỏ công đi thăm cho biết thêm chuyện gì xẩy ra tại các chỗ này. Tôi sẽ trở lại với anh khi xong việc riêng của tôi, và tôi chắc là anh sẽ không thấy chán trong lúc tôi vắng mặt.
Nhìn từ bên ngoài tôi đã thấy tòa nhà cao ít nhất là ba tầng, nên tôi quyết định sẽ đi xem sơ qua một chút như ông đề nghị. Để bắt đầu tôi vào một số phòng ở tầng dưới, trong một phòng tôi thấy có điêu khắc gia và lớp đầy học trò, ông đang giải thích làm sao để tạc một đường cong đặc biệt. Tôi đứng nghe giảng một lát, vài học viên không nói năng gì mà mỉm cười với tôi trong lúc tôi đang nghe, hiển nhiên muốn nói không phản đối gì về sự hiện diện của tôi. Ở phòng khác một ban tứ tấu đang dượt, phòng khác một nhạc sĩ vĩ cầm chơi tới chơi lui một khúc nhạc với bản nhạc trên giá trước mặt anh. Khung cảnh rất giống như học viện mà tôi thấy ở cõi trần, chỉ có cái khác biệt lớn lao là không có ai hối thúc hay đòi hỏi gì, thấy có đủ mọi ngành nghệ thuật, và cũng thấy rất rõ là những người tham dự tuy học tập rất mực chăm chú nhưng tỏ ra thật hân hoan, không căng thẳng chút nào như các sinh viên mà tôi gặp lần chót ở Viện Hoàng Gia Âm Nhạc Anh.
Hồi sau tôi vơ vẩn đi lên lầu và gặp chuyện ngạc nhiên đầy thú vị. Khi mở một cánh cửa (tôi thích thú ghi nhận là ở nơi đây người ta mở cửa chứ không đi xuyên qua nó, giống như đi xuyên qua cửa ở cõi trần) và đi vào trong các phòng của tầng này, tôi thấy một thiếu nữ ngồi trên ghế dựa gần cây đại dương cầm mở nắp. Nàng cầm trên tay một nhạc phổ và đang chăm chú đọc. Lúc tôi bước vào nàng ngẩng lên và tức khắc tôi nhận ra đó là Daphne Hillier, tôi gặp nàng lần chót tại Anh năm 1935 ở một hội quán chơi golf. 
Đối thủ của tôi hôm ấy quen thân với nàng, anh giới thiệu chúng tôi với nhau và chẳng bao lâu hai chúng tôi trò chuyện vui vẻ. Tôi gặp nàng nhiều lần trong kỳ nghỉ phép ấy và hai chúng tôi trở nên rất thân thiết với nhau. Mấy lần tôi muốn ngỏ lời cầu hôn vì nghĩ là mình yêu nàng nhưng chẳng biết sao tôi không nói. Phần vì tôi nghĩ mình chưa đủ tài chánh để thành hôn, và tôi cũng muốn lên tới bậc cao nhất trong ngành trước khi cưới vợ.
Tôi quay về Sri Lanka và trong hai năm chúng tôi trao đổi thư từ thường xuyên, rồi chuyện chấm dứt với việc nàng bị sưng phổi và tôi thương tiếc vô cùng khi mẹ nàng viết thư cho hay Daphne đã mất. Tôi đáp lại với thư chia buồn rồi dần dần mất liên lạc với gia đình nàng. Nay Daphne ngồi trước mặt tôi, trông rất sống động và dáng vẻ y như khi tôi gặp lần cuối mà lại có nét tươi vui hơn trước, quả thật trọn gương mặt nàng sáng rỡ hân hoan thư thái, và tôi hãnh diện thầm rằng một phần của niềm vui là do nàng gặp lại tôi.
– Daphne em yêu, có thật em đấy không ?
– Vâng, chính em đây, nàng nói. Nhưng anh làm gì ở đây ? Theo em biết anh chưa rời cõi trần mà, vậy chuyện gì mang anh tới đây ?
Tôi ráng giải thích đôi điều về việc đã xảy ra và tại sao tôi ở đây cho nàng nghe. Nàng bảo rất ngạc nhiên khi gặp tôi, vì dù có nhiều người tiến hóa đi vơ vẩn nơi cõi tình cảm trong lúc cơ thể họ say ngủ để lấy lại sức lực cho hôm sau, nhưng hiếm người còn sống lên tới cảnh thứ ba của cõi trung giới. Trong đa số trường hợp họ không biết cách lên nơi đây, và rất ít người biết có những cảnh khác nhau. Nàng nói tiếp.
– Nhưng anh yêu, bây giờ tới đây thì anh có thể trở lại nữa và đôi ta phải gặp nhau nhiều lần về sau, có nhiều điều em có thể chỉ cho anh. Tuy anh không hề cầu hôn lúc còn sống, nhưng em biết anh yêu quí em và em cũng yêu quí anh.
Khi đó tôi ý thức rằng nàng gọi tôi là 'Anh yêu, Darling' thì không có gì lạ cả, vì hồi xưa tôi thường gọi nàng là 'Em yêu' và nàng gọi tôi lại tương tự như thế. Tuy đó là chuyện mấy năm trước nhưng nó trở lại trong chớp mắt và tôi lại cảm thấy bị nàng thu hút, có sự rung động thích thú ở cạnh nàng y như tôi cảm biết trong những ngày tháng xa xưa. Tôi nói:
– Thật tuyệt quá, mà nếu anh không thường gặp em về sau thì chắc chắn không phải tại anh. Không chừng em có thể giúp anh trong việc này vì anh không rõ là tự mình có thể tới đây được hay không, cho dù lần này chuyện xem ra thật dễ dàng nhờ có người hướng dẫn.
Tôi kể cho nàng hay về những nỗ lực của tôi trong thời gian vừa qua, và làm sao ngoại trừ cuộc đi chơi sang cõi tình cảm lần đầu, tôi vẫn chưa thể hồi nhớ mọi chuyện tuy đã cố hết sức.
– Mai sau anh rất muốn nhớ lại chúng ta đã làm gì và nói gì. Không biết anh sẽ làm được chăng.
Tôi vừa nói mấy lời này thì vị thầy Ấn Độ bước vào phòng, ông nói:
– Vậy là hai bạn đã gặp lại nhau, tôi nghĩ chuyện sẽ xẩy ra như thế nếu tôi để cho anh có đủ thì giờ, mà anh gặp lại Daphne là chuyện hay lắm, vì cô giúp anh được rất nhiều và do tình thương hai bạn có với nhau, nhiều chuyện khi trước khó khăn nay trở thành khả hữu. Một là anh sẽ có mối liên lạc rõ ràng ở cảnh này, nó là cái anh có thể tập trung tư tưởng ngay vừa khi anh ra khỏi thân xác lúc thiếp ngủ. Việc anh nghĩ đến Daphne sẽ lập tức khiến cô biết vì tư tưởng là vật rất mạnh, và tư tưởng được tập trung không bị vật chất khác nhau của những cảnh ngăn trở, thế nên Daphne – nếu cô cho phép tôi gọi cô như vậy – sẽ biết ngay khi anh chú tâm vào cô, y như thể người ta biết anh muốn nói chuyện với họ khi anh gọi điện thoại.
"Daphne không dễ gì gặp anh khi anh ra khỏi thể xác và ở cảnh thấp nhất hay là cảnh đầu tiên của cõi tình cảm, nhưng cô có thể là trụ liên lạc cho anh đi từ cảnh đó lên cảnh thứ ba nơi anh hiện có mặt, theo cùng cách thức như nắm tay tôi là cái trụ cho anh, khi tôi bảo là anh dùng ý chí đi từ cảnh thấp nhất lên cảnh thứ hai, và sau đó cảnh thứ hai lên thứ ba. Anh sẽ thấy là khi sử dụng ý chí của mình, cộng thêm với việc có người tiếp xúc biết đường đi nước bước thì không có khó khăn chi cả. 
Ông nói tiếp:
– Anh thấy chăng, anh chưa biết mấy về luật Karma, cái luật đóng vai trò rất lớn trong việc khiến anh có được tiếp xúc và mang lại cơ hội vô cùng quan trọng cho việc tiến hóa của anh. Luật Karma hay nhân quả quản trị từng lời nói, tư tưởng và hành động của anh ở cõi trần. Việc anh yêu quí Daphne ở nơi ấy và cô đáp trả tình thương này, dù không dẫn tới kết quả là thành hôn như cuộc đời gọi, có nghĩa là hai người có dây kết nối với nhau mà sớm hay muộn cả hai phải giải quyết.
"Có nhiều chuyện đáng nói khi người ta biết yêu, vì khi ở trong tâm trạng ấy hoặc tưởng rằng mình đang yêu, con người muốn cho ra và trong một thời gian ngắn không muốn đòi hỏi được trả lại cho cái mà họ cho ra. Nói khác đi họ phát ra rung động cao nhất mà họ có thể làm được. Sự cho ra ấy là nguyên do bắt buộc phát sinh hệ quả tức luật Karma tác động một cách tự nhiên. Khi có tình thương chân thật trao đổi giữa hai người thì nó tạo nên sự hợp tác lý tưởng cho việc tiến bộ trong bất cứ chuyện gì, vì mỗi bên chỉ muốn và sẵn sàng giúp người kia bằng bất cứ cách nào, thế nên tôi rất mừng là hai bạn liên lạc được với nhau và xin thú thật là tôi đã mong có việc ấy.
"Tôi không thể chủ ý mang hai bạn lại với nhau, vì làm vậy là can thiệp vào cách luật Karma diễn ra tự nhiên như tôi đã nói. Có lẽ phần số hai bạn là gặp nhau trở lại trong điều kiện khác biệt như vầy, và nay hai bạn tự quyết định sẽ tận dụng ra sao cái lực đã khiến có sự tái ngộ này. Cách Thượng đế và số mạng làm việc thật lạ lùng. Nếu Charles không bị thiệt mạng hẳn anh sẽ không sầu não đến mức tôi được chỉ định tới gặp và giúp anh. Nay nhờ nỗ lực tìm hiểu đôi phần về Cơ Tiến Hóa, anh đã được cho phép gặp trở lại người mà anh tưởng là đã mất luôn, hay mất trong phần đời còn lại của anh ở cõi trần.
"Tôi không thể bảo đảm là mỗi lần hai chúng ta sang cõi tình cảm, sáng ngày hôm sau anh sẽ luôn luôn nhớ lại hết mọi kinh nghiệm, vì việc phát triển ký ức trọn vẹn để ghi nhận tất cả những gì anh làm trong lúc rời thể xác, đòi hỏi rất nhiều thực tập mà lúc này anh chỉ mới là học viên rất trẻ. Tôi sẽ giúp anh nhớ lại điều anh thấy tối nay, và khi ghi lại chuyện gì xảy ra trong đêm, anh sẽ ý thức việc não bộ nhớ lại kết quả của cuộc du hành là quan trọng tới bực nào. Có thể anh sẽ gắng công hơn trong tương lai, nó sẽ dần dần cho phép anh có được tâm thức liên tục là điều thiết yếu.
"Việc anh tìm được ở cõi tình cảm người mà anh yêu quí ở cõi trần, sẽ khuyến khích anh cố gắng tận lực để vượt qua giới hạn của anh. Daphne cũng có thể giúp anh nhiều lắm, vì đã sống ở nơi đây vài năm cô biết quyền lực của tư tưởng, cô cũng biết chuyện gì có thể làm ở cõi tình cảm và chuyện gì không thể làm. Nếu tiếp tục gắng sức nhớ lại việc anh làm khi rời khỏi thân xác lúc ngủ, anh sẽ có thể có cuộc sống thứ hai, cảnh đời mà anh chỉ sống được khi thể xác say ngủ."
Khi ấy Daphne quay sang vị thầy của tôi và nói.
– Nhưng Acharya, thầy nói tôi có thể giúp ích nhiều cho Henry, tuy nhiên sao tôi không thể tiếp xúc với anh trước đó ? Tôi đã ráng hết sức sau khi lên tới cảnh này, dầu vậy trong những ngày đầu khi mới lên cảnh thứ nhất của cõi tình cảm, tôi vẫn không thể gây ấn tượng gì cho anh ấy cả.
Trước khi ông có thể đáp, tôi ngắt lời và hỏi.
– Hai vị nghe đây, hai vị có biết nhau à ? Em gọi thầy là Acharya mà thầy chưa hề cho tôi biết tên của thầy, dù tôi đã gặp thầy nhiều lần trong mấy ngày qua. Tên thầy là Acharya ư?
– Phải và không phải. Vị thầy Ấn Độ trả lời. Nó quả là một phần của tên tôi, và ai tiếp xúc với tôi ở cảnh này hay gọi tôi như vậy. Tên đó dùng được cho chuyện của chúng ta vậy anh gọi tôi như thế nếu muốn nhưng về sau anh sẽ thấy rằng tên, hay ít nhất, họ của chúng ta trong đời không quan trọng chút nào. Cô Daphne không thể tiếp xúc với Henry – anh có để ý rằng đây là lần đầu tiên tôi gọi tên anh ? –  là vì Henry khi ấy chưa thức tỉnh theo nghĩa tinh thần, do đó anh không nhớ lại chuyện gì đã làm khi xuất ra khỏi thân xác, ngoài những giấc mơ không đầu đuôi, nửa chừng lộn xộn chẳng có nghĩa lý. Thế nên lần sau khi ra khỏi thân xác anh không có kế hoạch để định trí là mình muốn làm gì.
"Cô có nói chuyện với anh, tôi biết, nhưng như cô nói anh không có vẻ thích thú như khi nói chuyện ở cõi trần; khi cô nghĩ là anh sẽ nhớ lại những gì cô nói trong mấy đêm trước, anh lại tỏ ra mơ mơ màng màng không hứng thú. Ấy là vì anh chưa thức tỉnh, cần phải có một thảm kịch lớn lao như việc người em yêu quí của anh là Charles qua đời, mới làm anh quyết tâm đi tìm sự sáng, muốn có hiểu biết tinh thần. Cần phải có một khủng hoảng để nhờ vậy sinh ra ý muốn được giác ngộ, và cái gì mà con người muốn thì họ có thể đạt được miễn là họ sẵn lòng và hăng hái tìm kiếm. Đức Chúa có nói:
       Hãy gõ, cửa sẽ mở, 
       Hãy tìm, sẽ gặp.
"Những lời ấy đúng từng chữ một. Nhưng chúng ta phải tiếp tục việc làm tối nay, còn có nhiều việc tôi muốn chỉ cho anh trước giờ anh phải quay về thể xác. Cô Daphne có muốn đi với chúng tôi?"
Daphne nói.
– Vâng, tôi rất muốn vì tôi biết với sự hiểu biết và giúp đỡ của thầy, tôi có thể đến những chỗ mà tôi chưa đủ sức tới theo sự hiểu biết giới hạn của tôi.
– Trước hết hãy xem giờ, Acharya bảo tôi, coi là anh đã rời xác bao lâu. 
Tôi nhìn đồng hồ tay, thấy mặt kính đồng hồ hóa mờ mịt thật lạ lùng. Tôi ráng nghĩ xem bây giờ là mấy giờ, mỗi lần tôi đoán thì kim đồng hồ thay đổi hợp với ý nghĩ của tôi. Tôi đáp:
– Chịu thôi, tôi không biết, vì đồng hồ có vẻ như thay đổi giờ theo tư tưởng phát ra trong đầu tôi.
Acharya nói tiếp:
–  Đúng lắm, vì anh thấy không anh đang nhìn không phải vào thể tình cảm của một cái đồng hồ, mà là cái đồng hồ anh tưởng mình có trên cổ tay. Anh thường đeo đồng hồ nên anh tự động đưa tay lên mỗi lần muốn biết giờ, sự việc anh tin là có đồng hồ ở cổ tay làm cho một cái đồng hồ hiện ra trên cổ tay, bởi đây là cõi ảo tưởng và điều gì anh nghĩ hiện giờ thì cho phút này thôi. Bây giờ quí vị chờ ở đây để tôi đi xem giờ cho chắc, vì chúng ta chỉ muốn biết giờ ở nơi thể xác anh đang ngủ và khi nào thì anh phải trở về với nó. Ta không cần quan tâm đến giờ khắc ở những nơi khác trong trường hợp này.
Nói xong làm như ông biến mất hút trong không. Tôi chưa kịp hết ngạc nhiên thì thầy đã trở lại đứng cạnh tôi. Ông tiếp:
– Tôi quay về thể xác của anh đang ngủ trong phòng ở Colombo, thấy đồng hồ trên tay anh chỉ 11:30.
–  Như vậy là đồng hồ tôi đứng rồi, tôi nói. Có vẻ như chúng ta ở cõi trung giới đã mấy tiếng đồng hồ rồi chứ không phải chỉ mới một tiếng rưỡi. 
Acharya giải thích:
–  Anh sẽ mau lẹ khám phá là thì giờ ở cõi tình cảm khác với cái anh quen thuộc ở cõi trần. Quả đúng là chỉ mới một giờ rưỡi trôi qua khi anh ra khỏi xác và chúng ta bắt đầu cuộc du hành này. Anh sẽ hiểu thêm về sau điều tôi nói đây, khi ngày mai anh viết lại kinh nghiệm này và ý thức mình đã làm được gì chỉ trong một giờ rưỡi ở cõi trần. Hẳn anh đã có kinh nghiệm sau, nơi cõi trần khi anh thức dậy buổi sáng và thấy mới 6 giờ, anh biết mình có thể ngủ thêm một tiếng nữa. Anh lăn qua bên ngủ tiếp và mơ một giấc mơ dài nhiều tình tiết tưởng như dài trọn một ngày. Rồi choàng tỉnh và đồng hồ chỉ là anh mới ngủ có hai mươi phút. Điều tôi vừa kể với anh là sự thực ở cõi trung giới, anh cần nhớ rằng thời gian không có ở đây.

Chúng tôi rời phòng tập của Daphne đi trở ra hành lang, lướt xuống cầu thang vào tiền sảnh và ra vườn. Không thấy có ai chung quanh tuy chúng tôi đi ngang qua một người đang đi vào học viện để tiếp tục việc học của mình, bởi thấy anh kẹp nách một cái hộp giống như hộp đựng cây sáo. Anh cười khi chúng tôi đi ngang qua tuy không nói chi.
Acharya bảo muốn đưa chúng tôi đến nghe một buổi hoà nhạc đặc biệt mà thiên thần sẽ tấu sâu trong rừng, ở nơi hẻo lánh của cõi trung giới chỗ con người ít khi đến. Ông bảo đã được phép cho tôi và ông tới rồi và tin rằng không có gì trở ngại với Daphne đi theo, nhất là khi nàng dành phần lớn thời gian ở cõi trung giới để học nhạc. Ông giải thích là buổi hòa nhạc này sẽ khác hẳn với tất cả những gì chúng tôi đã nghe trước đó, vì nó không phải chỉ nhắm tới việc tạo ra âm nhạc tuyệt vời mà có mục tiêu đặc biệt là sinh ra xoáy lực, có thể dùng để ảnh hưởng một hội nghị đặc biệt quan trọng đang diễn ra ở cõi trần lúc bấy giờ.
Ông không nói đó là hội nghị gì nhưng hàm ý nó có liên quan đến cuộc chiến, và quyết định đạt tới trong hội nghị sẽ có ảnh hưởng đến kết quả sau này của thế chiến, cũng như thời điểm mà một khi thế giới ngưng chiến và quyết định dàn xếp những dị biệt của mình, bằng sự thương thảo thay vì bằng súng đạn. Ông giải thích rằng lực như vậy có thể tạo ra theo hai cách, một là tập trung tư tưởng mãnh liệt và hai là qua âm thanh. Sự hòa lẫn các hợp âm sinh ra do việc mỗi cá nhân đóng vai trò của mình trong buổi hòa tấu, tập trung rất mực vào mục tiêu muốn đạt tới, sinh ra một xoáy lực mà khi tư tưởng chuyển đi tới địa điểm của hội nghị, sẽ thực sự chi phối người tham dự cuộc họp đó. 
Thí dụ ông đưa ra là thử xem một nhóm người mà ai nấy cũng bực bội cáu kỉnh, có người giận dữ và ai cũng bị căng thẳng ít nhiều. Trước khi khai mạc cuộc họp như vậy người chủ tịch dàn xếp cho mọi người có trà nước, cùng lúc ông xem chắc là ai cũng có ghế ngồi thoải mái, nhiệt độ trong phòng dễ chịu. Khi buổi họp mở đầu thì người chủ tịch có thể kể một câu chuyện vui, có trà nước lần nữa rồi những chi tiết quan trọng của nghị trình được thảo luận. Kết quả là sao ? Tham dự viên chỉ mới vài phút trước cau có sẵn sàng bất đồng ý với nhau, sẽ nẩy sinh tình liên đới khiến có thể có cuộc thảo luận hợp lý và công việc của người chủ tịch hóa dễ dàng hơn. Cũng y vậy mà ở mức độ lớn hơn, lực sinh ra do gắng sức của thiên thần tối nay, có thể được dùng để ảnh hưởng nhóm người mà thế lực mạnh mẽ của họ có thể chi phối vận mạng của hang triệu sinh linh. Điều gì họ quyết định sẽ thực sự ảnh hưởng nhân loại trong tương lai, nên nỗ lực của thiên thần chắc chắn đáng công sức.

Không bàn thảo gì thêm chúng tôi cất bước lên đường, lướt trên mặt đất chừng năm thước và đi với tốc độ khoảng 80km/giờ. Chỗ này của cõi trung giới xem ra không có người ở, tôi không nhớ khi lướt đi bọn tôi có gặp ai hay nhóm người nào. Tôi để ý là vùng quê nơi đây thật diễm lệ, thỉnh thoảng chúng tôi bay ngang qua những tòa nhà gần hay xa có vẻ giống như Học Viện mà chúng tôi vừa rời vài khoảnh khắc trước. Chỗ nào cũng có hoa nở rộ và nhiều cây mọc khắp nơi. Rải rác đó đây tôi thấy có những khoảng rừng rậm giữa đồng quê, nhưng chúng tôi đi quá mau nên không ghi nhận được gì đặc biệt về mấy cánh rừng này. Tôi nghĩ là Acharya nói nhiều nhất, mô tả vùng mà chúng tôi đi ngang qua, nhưng trí tôi đầy hình ảnh lạ lùng của cuộc du hành lẫn sự mong chờ chuyện sắp tới, nên tôi không thể nhớ điều gì đặc biệt để ghi lại.
Sau khi đi chừng một khắc, tôi thấy phía trước có khoảng giống như khu rừng dầy, và nhớ là Acharya đưa tay chỉ mốc đất này khi chúng tôi đến gần lúc cuối chuyến đi, nhưng chúng tôi không hạ xuống ở đầu cánh rừng mà vẫn lướt bên trên ngọn cây khoảng vài thước một quãng chừng 8 cây số, rồi với vận tốc chậm lại như đi bộ Acharya dẫn chúng tôi đi xuyên qua một khoảng trống giữa mấy cây, và tôi thấy một cánh đồng cỏ xinh đẹp trống trải, hình tròn đường kính khoảng 50 thước.
Khi chúng tôi hạ xuống đất, không có dấu hiệu nào cho thấy có sinh hoạt gì, mà tôi cũng không thấy ai hay thấy vật chi di động trong khoảng đất trống trước mặt. Chúng tôi được dẫn tới một cây cổ thụ, rễ nó làm chỗ ngồi hết sức thoải mái và được dặn ngồi yên lặng. Có lẽ cũng nên nói tới cảm tưởng của tôi về ánh sáng ở đồng cỏ này. Nơi đây có cây mọc dầy bao bọc chung quanh giống như rừng già ở Ấn Độ, ngọn cây đâm nhánh nên khoảng trống trên đầu ngọn cây hẹp hơn rất nhiều, so với khoảnh đất trống ở dưới mà chúng tôi ngồi ngoài bìa.
Như đã nói, ở cõi tình cảm ánh sáng có màu xám xanh, trong trẻo hơn ánh sáng trăng rằm tuyệt mỹ, nhưng nó không chói hay có ảnh hưởng trực tiếp như ánh nắng mặt trời. Hãy thử tưởng tượng vùng đất trống này được chiếu sáng trọn vẹn, nếu có con thỏ chạy ngang qua vòng tròn trống thì ai cũng thấy cho tới khi nó mất tăm vào rừng dầy. Thế nên chúng tôi nhìn thấy hết mọi việc xẩy ra nơi đây, và cùng lúc có rừng rậm vây quanh mà không có hay có rất ít ánh sáng lọt qua được.
Ngồi chừng vài phút tôi để ý thấy một nhóm người thấp bé như các chú lùn, từ trong rừng tít đầu mé trái của tôi đi ra, họ ngồi xếp bằng theo hình bán nguyệt. Tôi nhớ là có khoảng mười người và mỗi người cầm theo một nhạc khí nửa như cái trống tròn, nửa như cái trống cơm. Họ mặc bộ quần áo mầu nâu, giầy nhỏ, mũ bằng vải màu xanh lục sáng hơn lá cây, diện mạo họ giống như của người đàn ông trung niên, trong khoảng từ 40 đến 70 tuổi xét theo tiêu chuẩn cõi trần. Ai đã xem phim "Bạch Tuyết và Bẩy Chú Lùn" của Walt Disney sẽ có ý niệm rõ rệt về hình dạng của những chú lùn này. Họ không nói mà cũng không phát ra âm thanh nào. 
Một lát sau có nhóm người cao hơn từ rừng đi ra gồm cả nam lẫn nữ, thuộc loại khác hẳn. Họ giống người nhưng bề ngoài thực là thanh nhẹ. Người nữ là các cô gái tuổi từ 18 đến 25 đều có tóc dài, hoặc buông lơi hoặc cột lại với giải băng mầu xanh dương hay xanh lục. Cả nam lẫn nữ đều tuyệt đối yên lặng, nhóm này có tổng cộng khoảng 35 người, và họ cũng mang theo vật thấy ngay là nhạc khí nhưng có khác chút ít với vĩ cầm, trung hồ cầm (cello), hắc tiêu (clarinet) và sáo mà ta thấy trong một dàn nhạc tây phương. Họ không ngồi xuống, mà xếp sao cho ai có cùng nhạc cụ thì ít nhiều tụ chung với nhau, và tất cả xếp thành một nhóm sát vào nhau, đứng cách nhóm đầu tiên là các chú lùn chừng 20 thước.
Nghe như không có tiếng gió nào vậy mà cành trên đầu của những cây cổ thụ đong đưa rất nhẹ. Một sự yên lặng lạ kỳ tràn ngập khoảng hai phút rồi cùng một lúc những chú lùn khởi sự chơi trống. Gần như đồng loạt họ bắt đầu hát bằng giọng thật trầm, hòa vào tiếng nhạc nền là tiếng trống mà không làm mất đi nét đẹp của những nốt từ miệng họ phát ra. Hiển nhiên đây là một chú ngữ huyền bí hay mantra, ta thấy rõ họ đang cố gắng tạo một lực tuôn tràn thấm nhuần trong không khí. Sau khoảng năm hay sáu câu xướng lên thì nhóm thứ hai hay dàn nhạc chính bắt đầu chơi.
Không làm sao tả hết nét mỹ lệ của nhạc được tấu, nó hòa hợp hết sức tuyệt vời vào chú ngữ đang xướng lên và tiếng trống nhẹ. Âm thanh không lớn lắm nhưng nó làm say mê tâm hồn do nét thanh khiết và diễm lệ của nhạc. Bài đang chơi là một bản hòa tấu, vì nó có những hành âm riêng rẽ và khác biệt với nhau, với chủ đề thỉnh thoảng được nhắc lại.
Hai hành âm trọn vẹn được tấu xong và khi dàn nhạc chơi hành âm thứ ba được nửa chừng, bất thình lình có âm nghe như giọng người mà đẹp đẽ kỳ lạ vang lên trong không. Có vẻ như nó phát từ trên cao nên tôi lập tức ngó lên, mới đầu tôi không thấy gì và không thấy ai, một lát sau Acharya kêu tôi nhìn về một cây ngoài xa phía đối diện của cánh đồng, và tôi thấy tít trên ngọn có người giống như một thiếu nữ trẻ hết sức kiều diễm, ngồi trên cành lá với tóc xõa sau lưng, đơn ca trong buổi hòa tấu tuyệt diệu. Cô có giọng kim thuần tuý, tiếng hát không lớn nhưng nét trong trẻo của mỗi nốt cất lên làm tim tôi thổn thức tới nỗi muốn bật khóc.
Bài hát kéo dài chừng mười phút, ban nhạc chơi vài trường canh rồi cô gái hát một mình không có nhạc đệm, sau đó chuyển qua lối thường là hát với dàn nhạc phụ họa, tăng dần sức mạnh mà dàn nhạc hòa theo. Hành âm thứ tư có vẻ là thể hiện tinh thần của ba hành âm trước đó và trọn ban nhạc kết thúc buổi trình diễn. Bản hòa tấu tản dần trong không, và đột nhiên ta nhận thấy sự tĩnh lặng rất đỗi chú ý lúc ban đầu nay lại bao trùm lần nữa. Tôi nhìn lên ngọn cây nơi cô ca sĩ ngồi trước đó thì không thấy cô đâu, nhóm gồm ban nhạc và những chú lùn vẫn ở vị trí của mình nhưng nay các nhạc sĩ ngồi trên mặt đất.
Có một ông lão thật già bước ra khỏi khu rừng, ông có chòm râu dài phất phơ và trên người ông là một bộ lễ phục. Ông bước chậm rãi từ tốn vào giữa cánh đồng, giơ tay lên trong dáng điệu cầu khẩn thần linh, khởi sự cái giống như lời triệu thỉnh vì hai nhóm nhạc sĩ cúi đầu và lắng nghe tiếng ông thốt ra. Tôi không hiểu chữ nào trong lời của ông nhưng tôi biết đó là kinh cầu, xin cho công việc vừa hoàn tất được thành công. Đó là một nỗ lực bằng ý chí vì mỗi thành viên của cả hai nhóm đều tập trung tư tưởng tối đa, mong cho mục đích được thành tựu. Sự việc chấm dứt đột ngột và lão ông nhẹ nhàng khuất dạng vào rừng già, rồi nhóm nhạc sĩ đang ngồi nay đứng dậy, đi ra ngoài cánh đồng, biến mất khỏi tầm nhìn của chúng tôi. Tôi bị mê mẩn tột độ với bài đã nghe tới mức không muốn nhúc nhích, và lời nói của Acharya làm tôi giật nẩy mình:
– Nào, đêm nay có bấy nhiêu. Tôi rất muốn biết sáng mai anh sẽ nhớ được bao nhiêu chi tiết.
Tôi vẫn còn như người trong mộng khi chúng tôi đứng dậy, lướt qua khoảng trống giữa những cây, bắt đầu con đường trở về. Acharya cho chúng tôi một vài ý niệm về mục đích của nghi lễ vừa được chứng kiến, nhưng tôi không hiểu rõ cho lắm lời ông nói, vì trí não tôi vẫn còn quay mòng mòng, và tôi nghĩ mãi về ảnh hưởng tinh thần tuyệt diệu có vẻ như là một phần nổi bật của buổi hoà nhạc từ đầu tới cuối.
Tôi nhớ là ông mô tả những nhạc sĩ khác nhau, ông nói các chú lùn là tinh linh còn ban nhạc gồm nhân vật thuộc thế giới thiên thần, là đường tiến hóa song song với loài người. Những thiên thần này có mức phát triển theo đường của họ, tương đương như Daphne và tôi có mức phát triển trong thế giới nhân loại. Nhân vật đơn ca thuộc hạng khác hẳn vì cô là một thiên thần tiến rất cao trong loài ấy, tương đương với một người hết sức tiến bộ theo đường tiến hóa của chúng ta. Lão ông có thể mô tả như một giáo sĩ, vì ông chuyên về phần việc tế tự trong đường tiến hóa của chư thiên, theo cách thức rất giống như nghi lễ của loài người.

Thời khắc trôi qua và chúng tôi về đến Học Viện, ngừng trên sân cỏ ngay trước cổng vào, vì Acharya nói là tôi cần in trong trí hình ảnh rõ ràng của tòa nhà này cho những dịp về sau. Tôi hỏi Daphne làm sao có thể tìm lại nàng lần nữa, với giả dụ là tôi có thể tự mình đến được tòa nhà này. Acharya trả lời thay cho nàng, bảo tôi có thể tin chắc là tìm được Daphne trong cùng gian phòng mà nàng đã ngồi khi tôi mới gặp lần đầu vì cõi tình cảm không bị đông người chật chỗ nên đa số có thể giữ một nơi làm việc riêng biệt cho mình. Tuy nhiên ông đề nghị là Daphne nên chỉ cho tôi căn nhà nhỏ nơi nàng đang sống. Daphne sung sướng với đề nghị này và kêu chúng tôi đến xem.
Nàng dẫn đường bằng cách lướt lên trên mái của Học Viện, và tôi kinh ngạc thấy một hình ảnh giống như ngôi làng nhỏ, nép mình trong thung lũng cách phần sau của dinh thự rộng lớn chừng một cây số. Các ngôi nhà nhỏ nằm rải ra nên mỗi căn có ít nhất một mẫu ta đất (400m2). Thấy rõ là chủ mỗi căn nhà chẳng những vẽ kiểu lấy nhà của mình mà luôn cả khu vườn, theo tâm tính riêng và sở thích cá nhân, cho ra kết quả xinh đẹp bội phần. Có những ngôi nhà trông như từ các vùng thơ mộng miền quê của Anh được mang tới, ngôi khác làm nhớ lại những biệt thự nhỏ ở miền nam nước Pháp, cái khác nữa thì thuần kiểu Ý trong khi tôi để ý có ít nhất hai ngôi nhà xây giống đền thờ phương Đông. Acharya quan sát thấy tôi chú tâm đến những kiểu kiến trúc khác nhau, nên chỉ cho xem hai ngôi nhà có mái vòm tương tự như đền thờ Hồi giáo mà tôi đã thấy, ông nói chủ nhân của chúng đặc biệt muốn có phòng với âm vang hoàn hảo.
Tuy muốn có giờ để nhìn lâu cảnh trí hết sức thanh tú này, tôi cảm nhận rằng Daphne nóng lòng muốn chỉ nhà riêng của nàng cho chúng tôi xem nên với Daphne dẫn đường đi trước, chúng tôi đi bộ dọc theo con đường làng khoảng 200 thước. Nàng đưa chúng tôi qua cánh cổng vào vườn có hoa nở muôn hồng nghìn tía thật rực rỡ. Ngôi nhà tự nó chỉ có thể tả là ngôi nhà trong mơ, kiểu nhà lập tức làm tôi ưa thích ngay. Trước hàng hiên là một hàng cỏ nhỏ, ở giữa có cây cho bóng mát, vài chiếc ghế mây đặt dưới tàng lá xòe quanh, trông thật thoải mái và tươi mắt với gối êm bọc mầu sáng. Tôi ý thức ngay lợi điểm của cõi tình cảm, ấy là ta không sợ trời mưa hay ăn trộm nên bàn ghế có thể đặt ngoài sân vô hạn kỳ.
Chúng tôi đi vào nhà và Daphne chỉ cho xem trước tiên căn phòng rộng nhất trong bốn phòng của ngôi nhà. Nó được trang trí làm phòng khách với ghế bọc nệm, ghế dựa, bàn đó đây, mấy cái ghế nhỏ và một cây dương cầm nhỏ trong góc. Không có vẻ gì là khoe khoang nhưng rõ ràng là chủ nhân bầy biện hoàn toàn theo ý của mình, điều lắm khi bất khả trong thế giới của chúng ta do giá tiền của những món mà ta muốn có. Ở đây không bị giới hạn như vậy và nhìn căn phòng, nó muốn nói chủ nhân có khiếu thẩm mỹ mà không có ý phô diễn dưới bất cứ hình thức nào. Có nhiều cửa sổ lớn chiếm gần hết chiều dài của phòng khách, ánh sáng trong trẻo ở cõi tình cảm chiếu xuyên qua đó, làm nổi bật mầu sắc hòa hợp thanh nhã của khăn thêu phủ mấy cái ghế và ghế dài, cũng như màu sắc của chiếc thảm Ba Tư rất ăn ý với vải bọc ghế, bọc nệm và màn cửa.
Tôi thấy ngay ở cảnh này rất dễ có được sự toàn hảo nếu người ta biết phải làm gì. Nơi cõi trần ta phải mất nhiều năm mà có thể vẫn không tìm được tấm thảm Ba Tư hòa hợp tuyệt diệu với mầu sắc dùng để trang trí căn phòng. Tường có mầu ngà và để trần, chỉ có một hai bức họa mầu nước lý thú và vài bức tranh khảm (etchings). Đây là gian phòng làm người ta muốn vào ngồi, nó trông như nhà ở chứ không phải là gian phòng được trưng bày để phô diễn. Chỉ bước vào mấy gian phòng là bạn biết ngay chủ nhân thuộc loại người nào, và tôi có thể hiểu được tại sao Daphne muốn dẫn chúng tôi đến xem nhà của cô.
Gian phòng rộng thứ nhì được trần thiết làm phòng ngủ đầy nữ tính, có chiếc divan ở một góc và những bàn ghế khác mà người ta thường thấy trong căn phòng trang hoàng đầy đủ loại này. Tôi ngạc nhiên là tại sao lại cần phòng ngủ ở cõi tình cảm, nơi mà đời sống hằng ngày không cần phải ngủ. Dầu vậy Daphne giải thích bằng cách hỏi tôi rằng không phải có những lúc tôi muốn ngồi dựa lưng, hoặc chỉ để nghỉ ngơi hoặc đọc sách hay sao. Tôi phải nhìn nhận rằng có, và Daphne bảo tôi nàng trải qua nhiều giờ khắc hạnh phúc trong lúc ngồi xả hơi trên divan, suy nghĩ, đọc sách và vẽ ra kế hoạch cho tương lai.
Hai phòng còn lại là phòng đọc sách và bếp. Thư viện được trần thiết đầy vẻ mỹ thuật và cho cảm tưởng thoải mái như hai phòng kia, kệ đầy sách đóng bằng da của Nga đặt kín hai bề của gian phòng. Chỉ bề ngoài của sách là đủ mời gọi ta ngồi xuống mở ra đọc. Bếp có đủ mọi tiện nghi hiện đại và dù tôi tưởng là căn bếp không cần ở cảnh này, Daphne bảo nàng vẫn thích làm bánh cho các buổi tiệc. Acharya nhận xét thêm là con người bỏ thói quen rất chậm, và thường phải mấy chục năm trôi qua trong cảnh sống ở cõi trung giới mới làm người ta mất hẳn, và quên hoàn toàn những thói quen đó. Tôi muốn ở lại lâu hơn nhưng có thể thấy là Acharya nghĩ đã tới giờ về. Tôi ngỏ ước muốn chót là được dành vài phút ngoài sân. Thật vui thích được đi thơ thẩn giữa những luống hoa, ngửi hương của từng bông hoa đặc biệt và thấy rằng hoa nào cũng có hương giống như ở cõi trần, nhưng có lẽ nồng đậm hơn. Acharya giải thích điểm này là tôi chỉ có thể nhận ra được hương hoa nếu biết trước nó là gì, lấy thí dụ nếu có bông hoa mà tôi chưa từng thấy và mùi hương xa lạ với tôi, tôi chỉ ngửi được hương mà tôi tưởng tượng là nó có xét theo hình dạng bề ngoài của hoa, trong khi mùi hương thực sự có thể khác xa với cái tôi tưởng tượng.
Daphne đưa chúng tôi ra cửa và chúng tôi chào từ giã nàng. Tôi đoan chắc với nàng là thể nào tôi cũng trở lại thăm lần nữa nếu tìm được đường lên. Chúng tôi lướt trên không băng qua mái của Học Viện, đáp xuống đất lần nữa ở chân đồi mà toà nhà tọa lạc trên đỉnh, Acharya nhắc tôi ghi nhớ hình dạng dinh thự vào trí tưởng tượng của mình, để tôi có thể tạo ra một hình tư tưởng đúng y về nó mỗi lần muốn đến nơi đây. Tôi làm theo như ông dặn. Xong Acharya bảo là đã tới giờ trở về thể xác của tôi ở Sri Lanka, và cách thức quay về thì y hệt như cách chúng tôi dùng khi đến cảnh này của cõi trung giới. Ông bảo tôi đừng lo lắng chi mà chỉ dùng sức mạnh ý chí, cố gắng tạo hình tư tưởng của vườn cỏ bên ngoài căn nhà của tôi ở Colombo. Ông nắm lấy tay tôi như đã làm trước đó, nhưng nói đó chỉ là để cho tôi tự tin hơn và thật ra không cần thiết chút nào.
Tôi bắt đầu tập trung tư tưởng với hết sức mình và khi làm vậy, tôi để ý là cảnh chung quanh lập tức mờ nhạt dần và tuy thực tế là không có sức gió cản đáng kể, tôi có cảm tưởng là mình đang di chuyển trong không gian. Theo bản năng tôi nhắm mắt và có lẽ vài giây sau cảm giác di động dường như ngưng lại. Mở mắt ra tôi thấy Acharya đứng cạnh tôi trên sân cỏ bên ngoài nhà ở Colombo, mỉm cười với sự ngạc nhiên thấy rõ của tôi. Hai chúng tôi lập tức đi vào nhà qua cánh cửa khóa, lên cầu thang và xuyên qua cửa phòng ngủ, tôi không còn ngạc nhiên là không cánh cửa nào cho ra chút cản trở.
Lẽ tự nhiên thể xác mà tôi để lại mấy giờ trước đó vẫn còn nằm say ngủ trên giường, nhưng có vẻ như nó lộ ra vài dấu hiệu nhỏ không yên. Acharya giải thích đó là phản ứng tự nhiên của cơ thể khi sắp tới giờ thức giấc. Ông nói chỉ vài phút ngắn thôi là tôi sẽ dậy, và nhấn mạnh chuyện cần thiết là tôi phải ngồi xuống ghi lại tức thì những chi tiết của việc xẩy ra trong đêm vừa rồi. Ông đặt tay lên trên đỉnh đầu của tôi và làm như định tâm vào những tế bào não để chúng giúp tôi nhớ lại. Tôi không nhớ là mình có chào Acharya và có thấy ông rời khỏi phòng hay không, vì chỉ trong vài giây tôi cảm nhận một thôi thúc rất mạnh trong lòng muốn trở về thân xác, và với cử động trườn người đã để ý trong một dịp trước, tôi chuồi vào nó trở lại và lập tức thức giấc.

Tạ ơn trời, ký ức đêm trước vẫn còn ở trong đầu nên tôi ra khỏi giường ngay tức khắc, mặc áo ngủ và lại bàn viết khởi sự ghi xuống chi tiết chuyến đi. Lúc đó là 5:45 và tôi thấy cần phải bật đèn vì trời chưa đủ sáng ở đây để viết hay đánh máy. Phải mất một lúc lâu mới ghi xong bài viết nhưng bởi đã cẩn thận xếp đặt trước để không bị quấy rầy, tôi có thể làm xong việc một cách yên ổn mà không có gì bên ngoài làm chia trí.
Ăn sáng xong tôi đọc lại bài viết của mình để xem chắc là không bỏ sót điều chi. Tối nay tôi dự tính tự nỗ lực một mình trở lại cảnh thứ ba, dùng Học Viện nơi Daphne làm việc là mốc điểm để tới.

Sáng Hôm Sau.

Lần này tôi thật sự thấy hăm hở vì có chuyện để tường thuật. Không phải tôi làm được việc gì rất tuyệt vời nhưng ít nhất tôi đã thành công một chút. Trở về nhà sau một vòng đi dạo, tôi thấy mệt và chuẩn bị đi ngủ. Tôi đọc sách vài phút sau khi lên giường rồi tắt đèn và chìm vào giấc ngủ. Tôi còn nhớ thật rõ ràng là thấy cơ thể nằm ra sao trên giường, nên không còn cần phải tượng hình trong đầu thấy mình trong tấm gương giả tưởng, như được dạy làm vậy trong những ngày đầu. Tôi không nhớ có trườn mình ra khỏi cơ thể, nhưng hiển nhiên là tôi đang ở trong phòng của mình, với thân xác nằm trên giường như đã thấy nó mấy lần trước. Tôi ra khỏi phòng xuyên qua cửa, xuống cầu thang và theo cửa trước đi ra sân cỏ, nơi Acharya và tôi đã đứng vài giờ trước đó. Chỉ mới chừng muời giờ rưỡi vì vẫn còn người qua lại, đi bộ và lái xe trên đường; tôi nhận ra là cái mình thấy là thể tình cảm của xe cộ và người ta, và tôi hiện đang ở cảnh thấp nhất của cõi trung giới.
Bây giờ là lúc ra sức để đi khỏi cảnh thứ nhất đó và lên cảnh thứ ba nơi Daphne sống. Nay tôi phải tập trung trọn năng lực ý chí của mình, tạo nên hình tư tưởng của Học Viện mà Acharya đã dạy tôi tượng hình thật cẩn thận hồi sáng. Tôi nhắm mắt và dùng tất cả sức mạnh ý chí có được, và quả nhiên cảm giác di chuyển không có gió cản trở thấy vẫn y như trước. Tôi giữ hình tư tưởng của Học Viện thật rõ ràng trong trí, nhất quyết phải đi tới đích và lập tức tôi thấy như cảm giác chuyển động ngưng lại, rồi tôi mở mắt ra. Tạ ơn Trời, tôi đã thành công ! Kìa là Học Viện đứng trên đỉnh đồi, y như tôi đã thấy nó tối qua. Nỗi khích động gần như quá sức chịu đựng của tôi. Thực vậy hẳn tôi đã mất hết sức kiểm soát quan năng của mình, vì đột nhiên mọi việc quanh tôi kể cả Học Viện nhòe nhạt đi, và chuyện kế đó mà tôi nhớ là thức dậy trên giường trong thể xác ở Colombo, tim động thình thịch như trống làng.
Ôi Trời, tôi đã làm hư hết chuyện ! Tôi đã tới đó ! Đúng là tôi đã tới nơi muốn đến, vậy mà do sự khích động và thiếu kiểm soát tôi đã rớt trở lại chỗ khởi đầu, tỉnh hẳn dậy. Tôi nằm tỉnh giấc đến hai tiếng đồng hồ là ít, rủa thầm sự ngu dại và thiếu tự chủ của mình, rồi có vẻ như tôi nguôi ngoai và thiếp dần đi. Tôi quyết định thử lần nữa và lần này kiểm soát chặt chẽ quan năng của mình, để không quay về thể xác trước khi nó ngủ đủ giấc.
Một lần nữa tôi lại tập trung tư tưởng để ra khỏi thể xác, mà cùng lúc tôi giữ trước mặt mình hình tư tưởng của nhà Học Viện. Lần này việc ra khỏi thân xác có khác một chút so với lần đầu. Tôi không nhớ chút nào là mình có đứng trong phòng ngủ hay không như đã làm trước đó hồi đêm, nhưng tôi kinh ngạc và rất đỗi vui sướng thấy mình ở đúng chỗ mà đã bị hun hút kéo lui, không sao cưỡng lại được khi mất kiểm soát mấy giờ trước. Lần này tôi nhớ là cần phải có tự chủ và và chẳng biết sao giữ được bình tĩnh. Tôi biết là tôi ngồi xuống cỏ mà không tìm cách đến gần Học Viện chi hết, chỉ tập trung mạnh mẽ để hạ bớt nhịp tim và được an nhiên, tỉnh trí.
Rồi tôi đứng dậy và bay lên cổng chính của toà nhà, lên cầu thang qua cửa vào phòng mà tôi nhớ rõ là Daphne ở trong đó hồi đêm qua. Lần này tôi ý thức là không thể nào đi xuyên qua cửa theo cách ta làm ở cõi trần, vì toà nhà này làm bằng chất liệu của cõi tình cảm thế nên cánh cửa nơi đây cản trở cho bước đi của người, bởi tôi cũng đang trong thể bằng chất liệu tình cảm. Tôi gõ cửa và đứng đợi nhưng không có trả lời. Tôi gõ cửa lần nữa, tự hỏi tiếng động có đủ lớn cho người trong đó nghe, nhưng sự yên lặng vẫn bao trùm và cửa không mở ra. Đợi một lát tôi cẩn thận quay nắm cửa và len lén thò đầu vào nhòm. Tôi không cần phải lo vì không có ai trong đó cả nhưng nhận ra gian phòng là nơi đã gặp Daphne tối qua, vì vậy chẳng lôi thôi gì nữa tôi đóng cửa lại, lướt xuống thang và ra khỏi cửa trước. Vọt lên trên không tôi băng qua mái nhà, và đi theo đường của mình với hy vọng Daphne có ở nhà nàng. Tôi đáp xuống đất trước khi đến thành phố đầy vườn hoa và ngắm nhìn lần nữa cảnh trí xinh đẹp của nó. Quả như được thấy cảnh Thiên Đường. Hèn gì tối qua tôi muốn đứng lại ngắm nó lâu hơn. Có nhiều loại nhà hơn tôi tưởng, và tôi hết sức hân hoan với hình ảnh trước mắt, chỉ ước rằng phải chi mình là họa sĩ để sau khi trở về thể xác, biết đâu tôi có thể vẽ lại hình giống với cảnh mà tôi thấy rất chi tiết lúc này.
Thành phố hoa viên chiếm một thung lũng uốn khúc và ở mọi bên vách, mặt đất thoai thoải dốc lần lên tới một dãy đồi thấy rõ ở đằng xa.Tôi mê say ngắm những khu vườn xinh đẹp chỉ có được ở nơi mà không có giới hạn về công lao hay tiền bạc. Vun trồng óc tưởng tượng khi sống ở cõi trần là chuyện rất đáng nói, vì tuy việc mơ màng dệt mộng không sinh ra kết quả thiết thực nào trong lúc ta sống, nhưng khả năng tưởng tượng chi tiết là điều rất cần ở cõi tình cảm. Ở đây người ta chỉ cần tượng hình một vật và suy nghĩ mạnh mẽ về nó thì lập tức tư tưởng biến thành vật, và vật còn đó bao lâu mà tâm trí vẫn còn tiếp tục giữ ý tưởng ấy.
Ai ở đây thật có diễm phúc, và tôi thoáng có ý nghĩ là nay đã biết thêm một chút về chuyện gì sẽ đến với mình, tôi sẽ không lo lắng nếu được cho hay là sẽ qua đời nay mai; những điều đã thấy và biết làm tôi nhận thức rằng luôn luôn có thể làm người đi khỏi thế giới này được sung sướng, nếu họ thực sự muốn có hạnh phúc. Tư tưởng chót tôi có trước khi gián đoạn bất ngờ xẩy ra, là tạo một hình ảnh trong trí về hầu hết các sở hữu chủ của các ngôi nhà thật dễ dàng biết bao. Ở cõi trần thì xét đoán một ai qua khu vườn của họ sẽ bị sai lầm, vì có lẽ họ chẳng có liên quan gì hay hoàn toàn không dúng tay trong việc tạo nên cảnh vườn. Còn ở đây thì không cần người làm vườn, mỗi khu vườn là sáng tạo của chủ nhân, và nhìn nó người ta có thể đoán khá đúng về đặc tính nổi bật của cá nhân. Tôi ước chi có cơ hội thử nghiệm giả thuyết của mình.
Ngay khi ấy tâm trí tôi bị thu hút bởi một bóng dáng mầu trắng đang chạy lại phía tôi trên đường quê, vừa chạy vừa gọi to. Chính là Daphne và thấy rõ là nàng xúc động lắm.
– Anh tới rồi, Henry, em mừng quá. Mấy giờ qua em ráng giúp anh hết sức rồi em nghĩ bao cố gắng chỉ hoài công. Hồi nãy em cảm được ngay là anh đến gần và em gần như chắc chắn là anh đã qua được bức màn, nhưng cảm tưởng dần dần phai đi và em mất hết hy vọng, nhưng rồi lại cảm thấy là anh ở gần đây. Em phải đến chỗ này, em không biết tại sao, và khi thấy anh đứng đây, tưởng như mơ nhưng thực sự có đây, em mừng quá làm tim muốn ngưng đập.
Tôi ngắm nhìn hình dạng yêu kiều trước mặt tôi. Trông nàng như chỉ là thiếu nữ nhỏ bé, mặc áo mỏng để lộ thân hình nhỏ nhắn với đường nét thật quyến rũ và tôi mê mẩn với sắc đẹp của nàng. Tóc nàng mầu nâu đậm có ánh vàng xen lẫn, làm thành cái khung tuyệt hảo cho nét biểu lộ sống động trên gương mặt xinh xắn, mắt lộ ra tình yêu vô cùng thanh khiết mà ít người nam được thấy trong đời. Tất cả những gì đẹp đẽ trong lòng tôi dường như toát ra ngoài mặt, và tôi cảm thấy cái động lực cổ xưa muốn bảo vệ, ôm chặt và giữ lấy, là cái cảm xúc đích thực của người nam đối với bạn đời mà anh đã chọn.
Tôi không muốn nói gì mà nhẹ nhàng ôm chặt Daphne trong tay, kính cẩn hôn lên mặt và tóc nàng. Nụ hôn của tôi không có chút si mê, dường như không có chỗ cho sự si mê, mà là niềm ao uớc sâu kín trong lòng muốn được tiếp xúc cận kề hơn với người trong mộng của tôi, nỗi ước ao muốn biết nàng nhiều hơn và nếu được thì thêm vào niềm hạnh phúc mà nàng đã có. Nàng hôn trả lại, tỏ ra không ngạc nhiên gì về hành động của tôi. Trong một chốc mắt nàng đầy lệ mà tôi lập tức hôn chặn ngay, gần như trước khi nó ứa ra. Rồi nàng dấu mặt đi khi chúng tôi quay ra, tay tôi choàng qua eo Daphne, chậm rãi đi về hướng nhà nàng.
Khi tới nơi tôi đưa nàng vào phòng khách đến cây đàn dương cầm. Tôi nói:
– Chơi cho anh đi cưng, lúc này anh thấy cần có nhạc.
Tôi kéo chiếc ghế lại và ngồi xuống cạnh Daphne. Nàng dạo khúc nhạc tôi không nhớ là gì nhưng biết nó là bản tả nỗi hân hoan vui vẻ. Tôi ngả người ra sau, nhắm mắt lại trong sự lâng lâng ngây ngất, và trong một lúc cảm biết sự bình an không gì tả được, điều khi đã kinh nghiệm rồi thì bất cứ cảm xúc nào khác cũng hóa ra trống rỗng, bất toàn.
Tôi không biết cả hai nói chuyện bao lâu, nhưng nhớ là kể cho nàng nghe hết mọi chuyện về nỗi đau khổ tôi có sau khi Charles bị thiệt mạng và làm sao Acharya đến với tôi, luôn cả những kinh nghiệm tôi có tới tối hôm trước, khi nhờ sự giúp đỡ của ông tôi đã gặp lại nàng. Chúng tôi quyết định là cho dù cả hai bị chia cách phải sống trong những cõi tâm thức khác biệt, làm cho không thể sống đời bình thường cùng nhau, hai tôi sẽ tạo một đời sống chung với nhau cùng với mọi chuyện đang có, và chứng tỏ rằng cái chết không hề là hàng rào ngăn cản sự tiến bộ hay hạnh phúc. Cả hai chúng tôi tin chắc rằng sự thương yêu của chúng tôi với nhau phải đủ sức khiến tôi vượt qua được bức màn bất cứ khi nào cần, và tôi sẽ đến với nàng, ngay cả khi nàng không thể đến với tôi.

Nàng kể tôi nghe đôi điều về người sống trong thung lũng. Nhiều kẻ là thân hữu của nàng và nàng muốn tôi gặp họ. Nàng giải thích là người ở cảnh này liên kết với nhau khi có cùng sở thích, nhưng không có hôn nhân theo nghĩa thông thường của chữ ấy. Người ta gọi nhau bằng tên ở đây, là tên riêng hay tên thân mật mà không bao giờ dùng họ. Nàng cho tôi vài thí dụ, kể rằng có cô gái luôn mỉm cười và vui vẻ nên có tên là Sunbeam. Người khác luôn luôn mặc y phục màu xanh thì được gọi là Bluebell, còn một người dành cả đời ở đây để giúp kẻ khác được cho tên là Y sĩ.
Tôi bảo tôi rất mong được gặp những người bạn của nàng, nhưng họ sẽ đón nhận tôi ra sao, người không thuộc về cảnh giới này theo nghĩa thông thường của nó ? Nàng bảo.
–  Rồi anh sẽ thấy, ở cảnh này anh chỉ thấy khía cạnh đẹp đẽ của người khác, vì có rất ít lòng ganh tị nhỏ nhen như trên cõi trần; ai cũng có thể có vật mà người khác có nếu họ muốn, chỉ bằng cách tạo nên hình tư tưởng là được, thành ra không cần phải nỗ lực để sống theo mức của người khác. Người ở đây trở thành chính họ và chẳng bao lâu anh sẽ ý thức – khi anh biết họ như họ thực sự là – câu nói sau đây rất đúng, 'Kẻ tệ nhất trong chúng ta có bao tính thiện còn kẻ tốt nhất thì có bao tính xấu.'
Tôi không để ý chút nào là cuộc nói chuyện kéo dài bao lâu, nhưng nhớ là bắt đầu cảm thấy có sự chộn rộn trong lòng, nó cho tôi biết rõ là cơ thể đã ngủ trọn giấc của nó. Tôi chỉ đủ thời giờ chào từ giã Daphne rồi không báo thêm chi, những bức tường quanh phòng chúng tôi đang ngồi có vẻ như tan loãng thành sương khói bốc lên ngay tức khắc, và tôi cảm thấy trở lại cảm giác di chuyển trong không. Lập tức tôi tỉnh dậy trong thân xác ở Colombo, lần này không có giai đoạn chuyển tiếp – tôi không thấy mình ở trong phòng ngủ với thể xác nằm trên giường trước mặt; tôi tỉnh ngủ hẳn và nhìn đồng hồ tay, thấy nó là 7giờ và mặt trời đang chiếu vào phòng. Tôi ra khỏi giường ngay, thiếu điều chạy ào tới bàn viết để bắt đầu bài thuật lại những chuyện xảy ra trong đêm, và nay tôi đã làm xong.
Đồng hồ chỉ 10 giờ, tôi chỉ có giờ cạo râu, tắm gội và ăn sáng một chút trước khi chờ Acharya đến. Tôi tự hỏi phản ứng của ông sẽ ra sao đối với tất cả những điều tôi cho ông xem. Ông có hài lòng chăng với tiến bộ mà học trò của ông đã có, hay ông sẽ cho tôi hay rằng ấy chỉ là may mắn, rằng khó mà tôi có thể tự mình đi du hành trong tương lai, và còn phải gắng công và học hỏi thêm nhiều trước khi tôi có thể dong ruổi mà không cần hướng dẫn. Tí nữa đây sẽ biết. Hình ảnh Daphne vẫn còn rất thật. Có lẽ tôi đã bỏ lỡ hạnh phúc của mình khi không thành hôn với nàng ở Anh lúc có cơ hội. Tôi không biết, nhưng tôi không có ý hối tiếc việc đã rồi. Tôi nghĩ có lẽ tương lai trước mặt chúng tôi sẽ vô cùng hào hứng và đẹp đẽ hơn bất cứ gì khác có thể có trong đời này.

 

CHƯƠNG TÁM

 

 

 

Hẳn phải là 11 giờ, trong mười phút qua tôi ngồi ở bàn giấy xem lại bài ghi chép về chuyện xẩy ra tối hôm trước khi giọng nói dễ nghe mà nay rất quen thuộc, bất thình lình phá vỡ cơn mộng mơ của tôi.
– Nào, anh bạn Henry, chót hết rồi anh cũng đã làm được việc đáng kể đó. Nay có lẽ anh sẽ nhìn nhận là có thể tự chứng thực những điều tôi nói với anh hồi đầu rằng chúng là sự kiện thật đối với tôi.
Ấy là Acharya vào phòng tôi theo cách lặng lẽ bình thường của ông.
– Vâng, Acharya, tôi phải nhìn nhận việc đó. Tôi bắt đầu ý thức là ngay cả những việc mà thầy dạy tôi hồi trước và tôi chưa thể chứng minh rõ ràng, hẳn sẽ chứng tỏ được khi tôi có thêm kinh nghiệm. Tôi nghĩ thầy đã biết rõ chuyện gì xẩy ra tối qua và tôi không cần đưa thầy coi bài tường thuật của mình, nhưng tôi muốn thầy đọc nó để xem tôi có quên điều gì quan trọng chăng.
Acharya trả lời rằng ông rất sẵn lòng đọc bài viết, và cũng muốn xem bài ghi lại cuộc du hành lần thứ hai ở cõi trung giới của hai chúng tôi. Ông thêm rằng ông muốn nói về chúng một lát trước khi sang chỉ dẫn mới. Sau khi xem xong những bài này, gương mặt ông lộ vẻ khen ngợi nỗ lực của tôi, thấy rõ là ông rất vui với việc tôi có thể thực hành vài chỉ dạy mà ông đã kiên nhẫn giảng cho tôi trong hai tuần qua. Tôi bảo mình mang ơn ông biết chừng nào với sự trợ giúp rất cần và không ích kỷ của ông, nhưng ông trấn an, bảo tôi không cần phải thấy chịu ơn gì cả, vì phần việc của ông là đáp ứng lại những trường hợp trong đời như tôi, cũng như ông được đáp lại rất hậu nếu ai mà ông chỉ dạy nhờ đó có lợi một cách thực tế và đúng nghĩa.
Rồi ông bắt đầu nhận xét về hai tối qua, còn tôi lắng nghe hết sức chăm chú. Ông nói như vầy:
– Trước tiên tôi phải giải thích tại sao tôi mang anh lên cảnh thứ ba của cõi tình cảm từ London, vì anh biết nó không cần thiết chút nào. Lý do là để anh ý thức rằng bất cứ thành phố nào mà anh đi tới bằng thể tình cảm sẽ thấy y hệt như thành phố mà anh quen thuộc ở cõi trần, tuy cái anh thấy không phải là vật chất mà là phần tương ứng bằng chất liệu tình cảm của đô thị vật chất, nằm ở cảnh thứ nhất của cõi trung giới. Trong tương lai tốt hơn là anh bắt đầu du hành từ Colombo. Anh sẽ thấy đi lên những cảnh cao hơn cảnh thứ ba cũng dễ dàng y thế, nơi mà anh tiếp xúc với Daphne, vì nguyên tắc làm việc giống nhau, nhưng muốn làm vậy anh cần phải có một nơi chốn rõ ràng ở mỗi cảnh, cho anh tượng hình nó trong trí và thể tình cảm của anh sẽ được mang lên tới đó chỉ vài giây theo cách tính ở cõi trần.
"Tôi hơi ngại là anh có thể e sợ một chút khi khung cảnh chung quanh mờ dần và anh có cảm giác di chuyển. Tôi phải khen anh là đã không thất bại lần đầu, chuyện tôi để ý thấy đôi khi xẩy ra cho học trò của tôi. Họ bị hoảng vía và gần như thức dậy tức khắc trong thể xác, tim đập muốn tung khỏi lồng ngực vì sợ hãi. Anh cảm thấy điều ấy thực vì đêm rồi anh quay trở về thể xác mà không chủ đích làm vậy, khi hăng hái quá mức trong lúc nỗ lực đi gặp Daphne và không cần tôi trợ giúp.
"Không có gì cần để nói về cảnh thứ hai của cõi trung giới vì nó rất giống với cảnh thứ nhất, chỉ có điều bớt đông đảo hơn và ít ồn hơn. Trong hai cảnh gần cõi trần nhất, dân cư thường trú nơi ấy sống đời sống luôn luôn có hấp dẫn họ ít nhiều khi còn ở cõi trần. Trong đa số trường hợp người như vậy không ở đó trọn cuộc sống ở cõi trung giới, tuy có ngoại lệ cho ai có ràng buộc quá nhiều vào cuộc sống vật chất.
"Họ không muốn tiến lên những cảnh cao hơn của cõi tình cảm, nhưng họ bắt buộc phải làm vậy sau một thời gian chừng hai ba trăm năm. Lúc đó chân nhân thúc giục họ 'chết lần thứ hai' để lên cõi trí. Phương pháp tiến bước này không phải là điều thường áp dụng, và không phải là cách của anh khi ngày giờ đến cho anh sang cõi trung giới. Anh đã ý thức khi thấy sinh hoạt của một số người sống ở cảnh thứ ba, là đời sống ở đó lôi cuốn anh nhiều lần hơn chuyện đi ăn nhà hàng rồi xem hát hay xi nê.
"Tôi đã cho anh thấy cả họa sĩ và nhạc sĩ làm việc ở cảnh thứ ba, nhưng anh cần nhận thức là cảnh này không chỉ giới hạn cho họa sĩ hay nhạc sĩ. Cho anh thấy các kỹ sư tài giỏi, kỹ thuật viên chăm chú vào công việc mà họ ưa thích là chuyện rất dễ dàng, tức bất cứ loại người nào mà sở thích sâu đậm hồi còn sống không kết chặt với trò vui vật chất hay theo đuổi cái thuần vật chất.
"Khi lắng nghe nhóm chơi nhạc dưới sự điều khiển của Johann Strauss anh đã thấy vài cá nhân thuộc thế giới thiên thần có sự tiến hóa song song với loài người. Sau này khi có kinh nghiệm với những cảnh cao hơn cảnh thứ ba, anh sẽ nhận thấy là không những thiên thần đông hơn mà họ hợp tác càng nhiều hơn với con người khi ta càng vượt xa cảnh đời vật chất. Anh có thể thích lối sống của họ hơn của chúng ta, và muốn tiến hóa từ cá, bướm, chim sang tinh linh, tiên nữ rồi chót hết là hàng ngũ thiên thần như anh thấy, kể luôn cả ban nhạc chơi trong rừng. Chúng ta không thể thay đường tiến hoá của mình trừ một số trường hợp rất đặc biệt. (Ghi chú: một số nghệ sĩ tài danh môn vũ được cho là từ đường tiến hóa thiên thần chuyển qua người, thí dụ cho vũ ballet là Anna Pavlova và Nijinsky người Nga hồi đầu thế kỷ 20).
"Có thể anh tự hỏi tại sao tôi dành nhiều thì giờ ở Học Viện, chỉ cho anh thấy việc diễn ra trong những toà nhà loại ấy. Tôi làm thế vì hai lý do.
– Thứ nhất là để anh ý thức rằng nơi đó là một trong nhiều trường hiện hữu ở cõi trung giới, chỗ người ta có thể học về ngành nghệ thuật mà họ ưa thích. Việc học tập này khiến cho khi tái sinh lần kế tới, họ có mong ước tiếp tục theo đuổi ngành ấy để ít nhất một số người có thể trở thành bậc thầy trong nghệ thuật của họ, và giúp cõi trần tiến bộ về cả văn hoá và học hỏi.
– Lý do thứ hai thì anh phải tự suy ra. Nhờ có hình ảnh thật rõ ràng của Học Viện trong trí sau khi trở về thể xác ở Colombo, anh có thể quay lại chỗ ấy rất dễ mà không cần phải cố gắng nhiều; từ đó tiếp xúc được với Daphne và tiếp tục kinh nghiệm về cõi trung giới. Trong tương lai đừng quên việc ấy. Hãy chấm một tòa nhà hay nhìn ngắm nó trong trí, rồi anh có thể dùng nó như hình tư tưởng để định tâm vào, khi muốn đi lên tới cảnh giới đó.
"Tôi hy vọng anh đã ý thức sâu sắc nhu cầu phải biết cách mà thời giờ ảnh hưởng đến việc du hành của anh ở cõi trung giới. Tôi đã đi vào chi tiết về điểm quan trọng này để anh có thể hiểu cách xem xét nó khi có cơ hội. 
"Về chuyến đi tới chỗ diễn ra nghi lễ ở cõi trung giới thì không có gì phải bàn. Anh nhớ là sau khi chúng ta đến nơi, ngồi lên rễ cây mọc ở bìa khoảng trống, tôi dặn anh giữ yên lặng hết mức. Lý do là cho dù người thuộc thế giới thiên thần không thực sự phản đối việc loài người xem họ làm việc, họ không thích có bất cứ gián đoạn nào. Hẳn anh còn nhớ sự nghiêm trọng của mục đích bao trùm mạnh mẽ trọn buổi lễ ra sao. Những chú lùn từ trong rừng bước ra ở hồi đầu và khởi sự nghi thức với giọng hát, tiếng trống của họ, có mức tiến hóa thấp hơn cả anh và thành viên ban hòa tấu rất xa.
"Tuy nhiên một điều thấy được rõ ràng là tất cả bọn tập trung hết sức mình vào việc làm của họ. Không có đùa giỡn, pha trò cười cợt như ta hay thấy trong buổi hoà nhạc ở cõi trần. Sự khác biệt đáng nói ấy là điều tôi muốn anh chú ý, vì nếu muốn thấu hiểu thế giới thiên thần và – tôi tin – khi ngày giờ tới làm việc chung với họ, anh phải ý thức rằng sự sống là chuyện rất nghiêm trọng đối với thiên thần, và việc đùa cợt thường không có trong cung cách họ hành sự. Không phải là họ không thể cười to, thiên thần thực ra rất đỗi hạnh phúc, biết thưởng thức những niềm vui đơn sơ của thiên nhiên, nhưng họ không để cho ảnh hưởng bên ngoài gây xáo trộn sự hoàn hảo của công việc họ làm.
"Để anh hiểu chuyện hơn sau đây tôi phải ra ngoài đề một chút. Chắc anh đã nghe tới các vị Đạo đồ (Initiates), La hán (Arhats) và Đạo sư (Adepts) trong đường tiến hoá của chúng ta. Những danh hiệu này ta hay thấy trong sách huyền bí nhưng không có mấy điều được viết về chúng. Lúc này tôi có thể nói vắn tắt cho anh hay như sau. Khi con người tiến hóa theo đường vạch ra cho họ, cuối cùng họ sẽ được các Đạo sư kiểm soát và hướng dẫn, các ngài là người toàn thiện nhưng ở mức tiến hóa giống anh cách đây hằng ngàn năm về trước.
"Những Vị này đã hoàn tất cuộc sống phải trải qua ở cõi vật chất, vì họ đã học trọn những bài học có ở cõi trần. Do lòng từ đối với toàn thể nhân loại, họ đã chọn ở lại thế gian (đây là một hy sinh cho các ngài như anh sẽ rõ về sau) trên quả địa cầu, để giúp nó tiến và trợ lực cho sự phát triển của nó. Các vị Đạo sư này đôi khi được gọi là các Chân Sư (Masters) vì một số Vị nhận đệ tử tức người sống trong đời nhưng chưa toàn thiện, để phụ lực với các ngài trong việc phải làm. Những đệ tử này được cho nhiều cơ hội phát triển mà nói chung người thường không có, nhưng anh có thể tin chắc là họ đã phải ra công mới được cho cơ hội như thế, mà không phải là thiên vị riêng tư khiến họ được chọn trong khối đông nhân loại cho công việc đặc biệt này.
"Đó là công tác khó nhọc và thường có nghĩa là ai như vậy phải từ bỏ nhiều điều thường làm ở đời, để dành trọn con người học cách phụng sự nhân loại mà không nhận lãnh lợi lộc vật chất đáp lại cho việc ấy. Họ thực hiện việc phụng sự vô ngã, và phần thưởng duy nhất là họ được phép tiếp xúc với những đấng toàn thiện họ đã thuận phục vụ, trong lúc ngủ khi dùng thể tình cảm của mình.
"Các đệ tử ấy sau nhiều kiếp làm việc và có huấn luyện đặc biệt, được chuẩn bị cho các lễ Chứng Đạo (Initiation, thường được dịch là Điểm Đạo). Nghi lễ ấy cho họ quyền năng làm họ khác biệt với người thường, như chỉ dạy họ cách đọc được tâm trí con người bởi khi một ai phát triển đến mức này, họ sẽ không hề dùng quyền năng ấy cho việc gì ngoài việc giúp đỡ kẻ khác. Họ được dạy cách giữ tâm thức liên tục ở mọi cảnh giới – như tôi chỉ dẫn anh có tâm thức liên tục ở cõi trung giới và cõi trần mà thôi, vào lúc này sự việc có hơi khó hiểu cho anh một chút.
"Khi cần, những người như vậy có thể làm điều mà thế gian gọi là phép lạ nhưng họ không hề làm nó, trừ phi theo lệnh của một trong các vị đạo sư giúp quản trị thế giới. Có năm giai đoạn hay năm lần chứng đạo, chỉ khi đạt tới lần thứ năm con người mới trở nên toàn thiện và không phải tái sinh trở lại cõi hồng trần. Đôi khi đời sống của vị đạo đồ được kéo dài lâu hơn mức trung bình, nhưng họ chỉ làm vậy cho mục đích đặc biệt hay vì họ cần đến ở một quốc gia nào trong thế giới, nhằm tạo ảnh hưởng cần thiết cho các thế hệ mai sau.
"Trong nghi lễ của thiên thần mà anh có mặt, anh để ý thấy thiếu nữ trẻ tuổi giữ phần đơn ca trong bản hoà tấu, ngồi trên ngọn của một trong những cây cao nhất ở bìa rừng mà không hề lại gần các thành viên của ban nhạc, hay đi xuống mặt đất. Lý do của nó như sau. Những cô gái ấy được huấn luyện đặc biệt cho việc họ làm, họ sống tách rời khỏi khối thiên thần nói chung và trên thực tế, hiến dâng mình cho công chuyện đặc biệt của họ. Muốn vậy họ phải phát triển để có những thể hết sức nhậy cảm, cùng tâm trí có thể hòa nhịp với phần việc chuyên biệt đang được thực hiện. Lấy thí dụ thì cô gái ấy là nhân vật tiến hóa cao, cô là một vị đạo đồ theo đường tiến hóa của thiên thần, và tới mức có quyền năng lẫn hiểu biết vượt xa hẳn các thiên thần loại trung bình mà anh thỉnh thoảng sẽ gặp.
"Rồi còn vị giáo sĩ hoàn tất nghi lễ và triệu thỉnh các Đấng kiểm soát vũ trụ để giúp cho việc đang làm. Ông cũng là một nhân vật tiến hoá cao nhưng chưa phải là một đạo đồ, và có lẽ cũng chưa phải là đệ tử của một trong những vị toàn thiện. Vai trò của ông là giáo sĩ, được chỉ dạy để thâu năng lực do âm nhạc có định lực và tư tưởng chú mục của người tham dự tạo ra, cùng chuyển nó đi nhờ quyền năng tư tưởng đến hội nghị đang diễn ra trên trái đất. Có thể anh không tin là chuyện như thế khả hữu và anh không cần phải tin, nhưng nói 'Làm sao có chuyện ấy xảy ra' thì cũng dại khờ y như tin nó chỉ vì ai đó bảo đảm với anh rằng cái này hay kia là chuyện có thật.
"Tôi mừng khi Daphne cho chúng ta cơ hội đến thăm nhà cô, vì biết rằng có những lúc cô không có mặt trong phòng của Học Viện. Mà tôi cũng mừng cho anh được dịp thấy có nhiều người sống trong thung lũng chỗ nhà của Daphne, vì muốn anh gặp và nói chuyện với vài người ấy. Chuyện của anh và nỗ lực anh làm để sống một đời sống khác bên ngoài thể xác trong khi vẫn sống ở cõi trần, chẳng những sẽ khiến vài người trong bọn chú ý mà còn giúp cho họ nữa.
"Một số chưa tiến như anh và trong những kiếp qua không có cơ hội để tiến như anh có, chuyện khiến anh được chỉ dạy đặc biệt trong kiếp này. Vì hưởng đặc ân được chỉ dạy anh cũng phải sẵn sàng và mau mắn truyền bất cứ kiến thức nào mà anh có cho người khác. Ý định xuất bản thành sách những bài nói chuyện của tôi với anh và việc anh ra khỏi thể xác đi du hành là chuyện rất hay, không phải nó chỉ giúp những ai còn đang sống trong thế giới mà thôi. Điều tôi nói với anh bây giờ và những câu chuyện ta sẽ có về sau, thì không phải chỉ nói riêng cho anh nghe mà còn cho những ai quan tâm đủ tới mức muốn tìm hiểu thêm về chuyện. Khi anh được cho hay những điều cần giữ kín thì thường là vì việc có hiểu biết loại ấy sẽ cho phép người ta gây hại cho kẻ khác, nếu hiểu biết đem dùng vào mục đích ích kỷ, nhưng tôi có thể bảo đảm là anh không có gì phải nghi ngờ về những chuyện đó, khi tới mức phát triển khiến được truyền loại hiểu biết như vậy.
"Nay nói về đoạn cuối của bài anh viết về chuyến du hành lần thứ hai sang cõi tình cảm, tôi phải khen ngợi về những chi tiết anh nhớ được để ghi lại. Lòng quyết tâm muốn nhớ là lý do khiến anh thành công, và nếu biết được rằng năng lực ý chí phần lớn là thần chú dọn đường cho đa số những khó khăn của mình, anh sẽ tiếp tục được thành công trong tương lai.
"Chi tiết quan trọng duy nhất có vẻ như anh không nhớ, và chắc anh không nhận ra lúc ấy, là khi nghi lễ diễn ra ở khoảng đất trống trong rừng, có hằng trăm thiên thần bay lượn nhẹ nhàng, vờn qua vờn lại ít nhiều ngay trên đó, chừng 5 – 7 thước bên trên những ngọn cây bao quanh khoảng đất. Họ không phải chỉ là khán giả hay đám đông tụ hội như ta thấy trong thánh đường lớn ngoài đời, mà họ là người tham dự nghi lễ tích cực nhất, nhờ nỗ lực của họ mà lực cần thiết tôi đã nói được sinh ra. Nếu anh thấy được họ thì hay biết mấy, vì anh sẽ để ý là vào cuối bài kinh cầu mà giáo sĩ xướng lên, có vẻ như họ thu lấy lực thiện sinh ra và sau đó lập tức kéo đi thành một đoàn, hẳn là để bảo đảm cho kết quả được như ý. Đừng bận tâm là đã quên chi tiết ấy, tôi có thể đoan chắc với anh là bài viết rất khá.
"Cái thúc giục anh tự làm thử lấy chuyện vào tối hôm sau là điều hết sức tự nhiên, trong tương lai khi có thúc đẩy tương tự đến hãy luôn luôn hành động ngay tức thì. Động lực ấy đến từ linh hồn là chính anh và linh hồn luôn mong mỏi anh có được thêm hiểu biết loại này. Hoạt động ở những cõi cao hơn cõi trần tỏ ra thú vị hơn đối với chân nhân, khi so với giải trí phù phiếm và sinh hoạt thường lệ ta phải làm trong đời. Dĩ nhiên chân nhân ý thức rằng cuộc sống ở cõi trần cần thiết cho sự tiến hoá của ta, nhưng mục tiêu của ý muốn này luôn luôn giữ nguyên là để con người thăng hoa chính mình, học càng mau càng tốt những bài học mà vô số kiếp sống là nhằm để dạy ta. Khi làm vậy ta sẽ mau lẹ thoát khỏi việc phải tái sinh lần nữa, và có thể có cuộc sống khác thú vị hơn nhiều, việc chỉ có thể xẩy ra cho ai đã học hết tất cả những bài học cần thiết nhờ sống dưới thế.
"Anh có thể thấy là bây giờ tôi giải thích sự việc dễ dàng hơn ra sao, vì anh đã có đôi chút ý niệm về cuộc sống của người ở cảnh thứ nhất, thứ hai và thứ ba sống ở cõi trung giới, ngay bên trên cõi trần. Cảnh thứ ba như anh biết có đa số các trường để dạy học viên những ngành nghệ thuật khác nhau, không lâu đâu tôi sẽ cho anh thấy cảnh thứ tư là cảnh nối tiếp của cảnh thứ ba. Cảnh thứ nhất và hai tạo thành mức một, cảnh thứ ba và tư tạo thành mức hai, cảnh thứ năm và sáu tạo thành mức ba, và cảnh thứ bảy là ranh giới giữa cõi tình cảm và cõi trí.
"Ở cảnh thứ tư có nhiều nhạc sĩ và họa sĩ, họ làm việc một mình và không muốn dạy ai hay lúc này đã dạy xong rồi. Ta cũng có y sĩ nghiên cứu với một số những cách trị bệnh mới được khám phá ở cõi tình cảm. Nhiều nhóm các nhà nghiên cứu tụ lại với nhau trao đổi ý kiến, tuy họ không có thú vật để thí nghiệm nhưng lý thuyết của họ tới ngày giờ sẽ kiện toàn và thâm nhập vào trí tuệ cùng não bộ của y sĩ làm việc tương tự dưới trần. Nếu anh hỏi ai chuyên nghiên cứu về y khoa trong thế giới là có bao giờ họ thức dậy buổi sáng và nẩy ra ý hay – điều họ có thể mất nhiều tháng để kiện toàn và đem thực hành, và sẽ thành một trong nhiều tiến bộ mới của y khoa – thì có lẽ họ nhìn nhận rằng có chuyện đó.
"Rồi có những tòa nhà, cả nhỏ và lớn, có vẻ là bệnh viện tâm thần. Tuy đời sống ở cõi tình cảm làm cho người bình thường nào cũng có thể hoàn toàn hạnh phúc, vẫn có một số đông người ao ước chuyện bất khả, muốn có mặt trời mặt trăng. Họ lo lắng, như đã lo lắng trong đời, và kết quả thường thấy là bệnh tâm thần. Thể tình cảm có cái tương ứng với não bộ xác thân mà còn chứa đựng thể trí. Người ta có thể bị rắc rối trí não sau khi qua đời, như hối hận về hành động hay lời nói nông nổi trong kiếp đã qua, chuyện mà nay họ ý thức là không bao giờ xóa bỏ hoàn toàn được. Cái đó làm họ đau khổ nhiều hay ít tùy theo mức nhậy cảm của mỗi người. Những trường hợp như thế thường được y sĩ chuyên về tâm thần chữa trị, mang lại lợi ích cho cả y sĩ và bệnh nhân. 
"Ở cảnh thứ năm và sáu, anh sẽ thấy nhiều người nữa nghiên cứu, chẳng hạn như các nhà phân tâm học, hay các chuyên gia về tim, não v..v.. Chuyện thường xẩy ra là y sĩ và các chuyên gia thuộc những ngành khoa học khác nhau, có nhiều kiếp liên tục làm cùng một loại công việc, anh có thể tưởng tượng chuyện sẽ có giá trị biết bao khi người như vậy gặp bạn đồng ngành ở cõi tình cảm, nơi mà tất cả kiến thức được tụ lại vì lợi ích của nhân loại. Có các nhóm triết gia muốn giúp đỡ thế giới theo cách riêng của họ, họ cảm thấy nếu khuynh hướng tư tưởng trên thế giới được thay đổi, theo đường tiến bộ hơn là chiến tranh và sự thống trị của quốc gia, thì cuộc sống sẽ thoải mái hơn rất nhiều và đáng ao ước hơn.
"Có những nhà thần bí tin rằng nhân loại có thể được giúp tốt nhất bằng cách tham thiền theo những đề tài như 'Tính Duy Nhất của Sự Sống'. Rồi có người khác đầy lòng tín ngưỡng cảm thấy rằng con người chỉ tiến bộ được nếu tin vào tín điều này hay kia, người như thế nỗ lực tạo nên một tôn giáo toàn thiện, bằng cách lấy những điểm giáo lý trong tất cả những tôn giáo lớn từ xưa đến nay, trộn lại thành một triết lý mới. Các thiên thần quan tâm rất nhiều về tất cả những hoạt động này như anh sẽ thấy về sau.
"Ở những cõi đó các vấn đề kinh tế thế giới được thảo luận và xem xét nhiều tháng nhiều năm. Khi các chuyên gia ấy đi tới một kết luận nào, giải pháp được thử nghiệm bằng cách gây ấn tượng trong não bộ người trần về kết luận này, cho những ai ở trong vị thế mà lời cố vấn của họ được quốc gia hay các nhóm cải cách đầy thế lực nghe theo, vì nhân loại phải được trợ giúp khi có khủng hoảng quá lớn lao và quá nghiêm trọng không thể giải quyết được với nỗ lực của riêng mình.
"Trong những phút nguy biến các nhà lãnh đạo tài ba của thế giới có vẻ như đứng trên đài cao và sáng chói, thường khi ai đó trước đây chỉ là chính trị gia hay nhà lãnh đạo ít tiếng tăm của một chính đảng, nay trở thành nhân vật nổi bật trong chính trường thế giới; kết quả ai cũng thấy là họ có sự khôn ngoan và tài lãnh đạo vượt mức bình thường mà người ta tưởng chính khách ấy có. Khi cơn khủng hoảng qua rồi và làm xong phần việc lớn lao, có vẻ như họ trở lại vị trí không tiếng tăm trước đây của họ.
"Những người ấy được chọn và được một trong các đấng Cao Cả trợ giúp, những Vị luôn chăm chút trông nom thế giới và lo lắng cho con người. Trong khoảng thời gian được ảnh hưởng thì chính khách quả là siêu nhân, nhưng khi nguy biến giảm đi thì sự trợ lực phải rút về, vì mỗi người có tự do ý chí và chỉ có thể được giúp đỡ tới mức ấy mà không thể đi xa hơn. Winston Churchill biết về điều này và nói như sau vào năm 1942, 'Thỉnh thoảng tôi có cảm tưởng rất mạnh mẽ là có sự can thiệp. Tôi muốn nhấn mạnh là đôi khi tôi cảm thấy có bàn tay hướng dẫn đã can thiệp vào. Tôi có cảm tưởng là chúng ta có người hộ mạng vì chúng ta phục vụ cho chính nghĩa lớn lao, và chúng ta sẽ có được sự hộ mạng này bao lâu mà chúng ta phục vụ trung thành cho chính nghĩa ấy.'
"Cũng ở nơi đây có những người quan tâm đến việc thực phẩm cho nhân loại bị thiếu hụt, vì dân số địa cầu tăng hằng triệu mỗi năm. Thiên thần giúp vấn đề này bằng cách gợi ý những phương pháp canh tác mới, các đề nghị đó được gieo vào trí não của người sống trên trái đất, cho những ai có trách nhiệm về vấn đề này trong khu vực của họ. Bằng cách này, ý tưởng và phương pháp mới xuất hiện và dần dần được nhân loại dùng. Anh có thể dự vài hội nghị diễn ra ở những cảnh trên và tự chứng minh những gì tôi nói với anh là đúng, nhưng không chắc là anh có thể tiếp tục dự đến khi họ đi tới kết luận, vì chúng thường kéo dài nhiều tuần hay nhiều tháng tính theo ngày giờ cõi trần, và lẽ tự nhiên là anh phải trở về thân xác sau vài giờ thoát ra. Nhiều tiến bộ vĩ đại thường có được ở những hội nghị như vậy, và đề nghị được đưa ra cho người sống trên đời, cho phép nhân loại tiến triển về mọi mặt khác nhau.
"Có lẽ anh tự hỏi tại sao thế giới tiến bộ trong thế kỷ này hơn là thế kỷ kia. Được như vậy là vì không những ngày nay ta có phương tiện hàng không, vô tuyến, mà cũng là vì nói chung nhân loại quả chậm chạp, họ đang chú tâm dần đến việc giải quyết những vấn đề hiện có, và nhờ giải quyết ấy mà khối đông được hưởng lợi. Nói khác đi, nhân loại càng tiến hóa hơn thì càng bớt ích kỷ dần, nó chứng tỏ là ít nhất họ đã học được vài bài học mà cuộc sống dưới cõi trần là nhằm để dạy cho tất cả chúng ta. 
"Khó mà giải thích việc làm của thế giới thiên thần, vì phương pháp họ dùng rất khác biệt với điều anh đã quen. Muốn hiểu nó anh phải nhớ rằng thế giới thiên thần nắm quyền kiểm soát cái phần của sự sống ta gọi là Thiên Nhiên như biển cả, gió mưa, việc dùng ánh sáng mặt trời trong canh nông, và những chuyện như ngày giờ thích hợp trong năm để gieo các loại hạt khác nhau. Tất cả đều thuộc về việc quản trị của thiên thần. Họ dự vào những cuộc thảo luận với loài người khi hiểu biết chuyên môn và kinh nghiệm của họ có thể được xử dụng. Thường thường họ truyền tư tưởng theo cách suy nghĩ của trí não mà không bằng lời – nhưng họ có thể dùng lời khi cần phải làm vậy.
"Thỉnh thoảng anh nghe là giông bão, cuồng phong và động đất làm bao nhiêu người thiệt mạng, tàn phá lớn lao và hằng triệu người mất nhà cửa. Anh có thể tự hỏi làm sao ông Trời tốt lành lại để cho chuyện như vậy xẩy ra, nhưng anh có tìm hiểu về nguyên nhân có thể có của những thảm nạn ấy không ? Không phải là trước khi có tàn phá như vậy người ở các nơi ấy sống trong điều kiện dễ sinh ra tội phạm hơn là tiến bộ ? Thảm nạn như tôi nói tới có thể dễ dàng là phương tiện để làm một chính phủ lười biếng thức tỉnh trước trách nhiệm của mình, và thường thì một kế hoạch tái xây cất được bắt đầu ngay lập tức, để ai sống sót có thể được cư ngụ trong điều kiện thích hợp hơn trước.
"Thiên thần kiểm soát bão tố, động đất và theo kinh nghiệm riêng tôi biết các ngài xót thương nhân loại rất nhiều, do sự mù quáng của nhân loại mà khiến phải có tai hoạ như thế. Các ngài phân bố một số lớn thiên thần để rước những người không may bị tử nạn trong các thiên tai đó, lúc họ chuyển từ cõi trần sang cõi trung giới, làm những gì thiên thần có thể làm để giảm bớt nỗi kinh hoàng của người bị thiệt mạng, và giúp họ làm quen với tình trạng mới.
"Chuyện cũng y vậy khi các thế chiến xẩy ra, vô số linh hồn bị thảm tử vì vũ khí tối tân. Không có đủ người thuộc hàng ngũ nhân loại ở cõi trung giới để đối phó với mức độ tàn sát khi hai đoàn quân quyết chiến với nhau, thế nên hàng ngũ thiên thần sát cánh với người, làm tận lực trong quyền hạn của họ để giúp ai bị sợ hãi khủng khiếp vào lúc qua đời. Quả thực có những lúc người và thiên thần sánh vai nhau hợp lực, mỗi bên phục vụ Thượng Đế theo hết khả năng của mình. 
"Nay tôi phải nói cho anh hay một chút về sự sống ở cảnh thứ bẩy và là cảnh chót, cảnh cao nhất của cõi trung giới. Việc đầu tiên đập vào mắt anh khi đến thăm nơi ấy là hoàn toàn không có nhà cửa, dinh thự. Không có dấu hiệu nào là có ai cư ngụ, nhưng anh sẽ thấy có người sống thường trực ở đó tuy họ làm đủ mọi cách trong vòng khả năng của mình để xua đuổi khi có ai khác đến gần. Người như vậy tin rằng việc tiến hóa của họ chỉ có thể làm được bằng cách ở ẩn hoàn toàn và sống đời thinh lặng. Khi ở dưới trần họ là đạo sĩ, sống xa lánh người đời ở nơi thâm sơn cùng cốc, hay trên đỉnh núi chơ vơ ít có ai lên tới. Những người này dành trọn cả đời để tham thiền, nhịn đói và sống đời mà thế gian gọi là khổ hạnh.
"Người như vậy vẫn y thế ấy sau khi chết, và tới ngày giờ thì họ lên đến cảnh thứ bẩy của cõi tình cảm, tiếp tục đời tham thiền ở đó. Anh thấy họ trong kiếp dưới trần là tu sĩ thuộc những dòng tu tịnh khẩu hoàn toàn giữ im lặng, và sống đời tách biệt với người thường. Những người này đã quen với cảnh sống một mình, cầu nguyện nhiều giờ trong ngày để giúp nhân loại, nên sau khi chết muốn có sự tĩnh lặng ấy bằng cách tiếp tục lối sống họ đã theo nhiều năm trên đời. Ở cõi trung giới họ không cần phải đi tìm hang hốc hay cất nhà để ở, cũng không cần thực phẩm để sống nên thường là họ sống giữa khoảng không, trong rừng và nơi xa xôi khuất nẻo, chỗ dễ dàng cho họ được ở yên không bị quấy rầy.
"Cộng thêm với người thuộc nhân loại, ở cảnh giới này anh sẽ gặp vô số thiên thần tiến hoá cao làm việc nơi đây, nhưng không có tiếp xúc chút nào với nhân loại. Anh cũng sẽ gặp những người mà thời gian sống ở cõi trung giới đã xong, họ cần đi  ngang qua cảnh thứ bẩy để lên cõi trí, trên đường trở về phần cao cả trong người họ là chân nhân hay linh hồn, nó cư ngụ ở những cảnh cao của cõi trí gọi là cõi thượng trí (tức ba cảnh cao của cõi trí). Những người này thường có người hướng dẫn đi cùng với mình lên cảnh thứ bẩy, hướng dẫn viên cũng là người như họ nhưng tiến hóa hơn và là linh hồn già dặn hơn; phần việc đặc biệt của các hướng dẫn viên là giải thích chi tiết chuyện "Chết lần Thứ Hai' nghĩa là gì.
"Con đường từ cõi tình cảm sang cõi trí hoàn toàn không có gì đau đớn mà chỉ là việc bỏ rơi một lớp vỏ. Người hướng dẫn có phần việc là trình bầy để những người này không có chút sợ hãi nào trong trí, vì tuy tất cả chúng ta đi cùng đường này nhiều lần trước đó mỗi khi xong một kiếp ở cõi trần, nhưng ta không nhớ lại đoạn đường đã qua, bởi mỗi lần tái sanh dưới trần ta có thể xác, tình cảm và trí hoàn toàn mới, chúng không mang theo ký ức chi tiết của những kiếp trước. Việc đi từ cõi tình cảm sang cõi trí là chuyện nằm ngoài tầm kiểm soát của người trung bình và khi tới lúc phải làm vậy, họ bắt buộc phải bỏ lại thể tình cảm vì lẽ giản dị là họ không còn kinh nghiệm nào phải học thêm ở cõi đó. Khi ấy họ bắt buộc phải sang cõi trí để củng cố sự phát triển trí năng mà họ đã hoàn tất trong kiếp dưới trần, và thêm nó vào khối hiểu biết chứa trong hạt nguyên tử trường tồn (Permanent Atom), tượng trưng cho tất cả những kiếp đã qua của họ.
"Sau khi nhận được tất cả chỉ dẫn cần thiết về việc đi sang cõi mới, người ta dần dần thiếp ngủ và gần như tỉnh giấc ngay tức thì ở cõi trí, và trong giấc ngủ ngắn ngủi họ thải bỏ hẳn thể tình cảm của mình. Bạn bè chào đón họ bên cõi trí y như khi bạn bè tiếp rước họ lúc qua đời và từ cõi trần bước sang cõi tình cảm. Họ bắt đầu cảnh sống hoàn toàn mới lạ, trong trường hợp người trung bình thì cảnh sống này thường ngắn hơn nhiều so với thời gian ở cõi trung giới, tuy ai tiến hóa thì sống ở cõi trí lâu hơn.
"Thể tình cảm mà người ta bỏ lại khi sang cõi trí sẽ tan rã sau một thời gian, hoàn trở về khối vật chất ở cõi tình cảm. Trong giai đoạn tan rã ấy, thể có hình giống y như chủ nhân sử dụng nó trước đó. Anh cần hiểu rằng nó chỉ là cái vỏ nhưng bởi chất liệu cõi tình cảm rất uyển chuyển, nó có thể di động tới lui và với ai chưa kinh nghiệm thì dường như nó còn sự sống. Tôi đã thấy người còn ở dưới trần mà lên thăm cảnh thứ bẩy, ngạc nhiên khi thấy mình không thể bắt chuyện với mấy cái vỏ trôi vật vờ. Vỏ không phải là xác loại bỏ theo nghĩa thân thể là tử thi sau khi chết, bởi tuy cái vỏ không còn nối kết chút gì với con người thật hay chủ nhân đã bỏ nó, nhưng vỏ vẫn còn giữ lại một ít sức sống. Thực vậy bao lâu vỏ chưa tan rã hoàn toàn thì cái vỏ vẫn nghĩ nó là người đó, chỉ vì nó là một phần hay cái bóng của người đã đi khỏi.
"Trong những buổi cầu hồn đôi khi chúng ta thấy có hiện hình đủ loại, sự thực là thay vì người đồng tiếp xúc được với chính một ai, họ chỉ tiếp xúc được với cái vỏ của người ấy – điều này có thể xảy ra khi người ấy đã qua đời nhiều năm. Bạn của khách trong buổi cầu hồn có vẻ như trở lại cõi trần và nói chuyện với họ, nhưng về nhiều mặt không thấy bạn khôn ngoan như hồi còn sống, thấy như họ suy sụp. Ấy là chuyện bất khả, người ta không thể thoái hoá mà tiến bộ hơn khi sang cõi bên kia, vì vậy bất cứ khi nào gặp trường hợp như trên, có thể tin chắc rằng đó không phải là chính người ấy mà chỉ là cái vỏ, phần bị con người thật bỏ lại sau.
"Tuy cái vỏ không linh hoạt nhưng rất có thể là các sinh vật khác nhập vào đó, dùng nó làm thể tạm thời và giả dạng là chủ nhân hợp pháp. Ai quá vãng đang sống ở cõi tình cảm thường làm việc ấy để đùa cợt gạt gẫm người khác, hay các tinh linh rắn mắc ưa phá khuấy, chiếm lấy một vỏ, tròng vào người như ta tròng áo khoác và giả dạng là chính họ. Ai giả dạng bên trong cái vỏ rất dễ đưa bằng chứng rằng mình là chủ, bởi những gì chứa trong não bộ của chủ nhân chính hiệu lúc còn sống sẽ truyền qua phần tương ứng của thể tình cảm, và sẽ được giữ lại trong đó cho bất cứ thực thể nào tới chiếm và giả dạng chủ nhân của vỏ lấy dùng. Có nhiều trường hợp người nghiên cứu có thông nhãn (clairvoyance) đủ để thấy đằng sau cái vỏ có thể khẳng định, nhưng bất cứ ai nghiên cứu phải hết sức cẩn thận, vì tuy cái vỏ không còn sự sống của chủ nhưng nó có thể được làm sinh động bên trong hào quang của người đồng. Anh có thể tiếp xúc với vỏ sau này, và có một điều anh biết chắc được là chúng không có gì nguy hiểm và không thể gây hại cho anh.
"Tới đây chấm dứt câu chuyện hôm nay của tôi. Chắc hẳn anh ý thức rằng nó hoàn tất việc trình bầy rất ngắn ngủi của tôi về sự sống trong những cảnh khác nhau của thế giới kế cõi trần. Tôi muốn anh chuẩn bị một số câu hỏi để tôi trả lời vào sáng mai. Sau đó khi anh tự mình thí nghiệm nhiều ngày, tôi sẽ trở lại và cho anh hay đôi điều về cảnh sống nơi cõi trí. Tôi không thể cho nhiều chi tiết về cõi này giống như đã nói về cõi tình cảm, vì khó mà nói về những chuyện xảy ra ở cõi trí và so sánh chúng với cái giống vậy ở cõi trần.
"Sự sống ở cõi đó rất khác biệt so với đây vì mọi việc có liên hệ đến tư tưởng. Ở đây anh có bàn ghế, nhà cửa, ở cõi trí tư tưởng là bàn ghế, nhà cửa – thực vậy không có gì ở đó ngoài tư tưởng – nên anh có thể thấy rõ khó khăn của tôi. Chắc tôi cũng sẽ đưa anh đi một chuyến ngắn để thăm cõi trí, với hy vọng anh có thể nhớ đôi chút về điều cảm nhận hơn là thấy ở đó, nhưng sau này tôi sẽ nói nhiều hơn.
"Mai tôi sẽ trở lại vào giờ thường lệ và hy vọng bản câu hỏi của anh sẽ sẵn sàng."

 

 

Xem tiếp  HÀNH TRÌNH CỦA  LINH HỒN -  Chương 9-10

Đặt mua online sách: "HÀNH TRÌNH CỦA LINH HỒN" - GỌI: 0987 64 3939